[Các Liên Kết]

MỤC LỤC: KINH TẠNG

BA PHÁP—[Phẩm XII-XVI]

Tăng Chi Bộ Kinh
(Anguttara Nikaya)
Tập 1

Chương
BA PHÁP
[Phẩm XII-XVI—Kinh số 111-163]

———————————————————————————————
PHẨM XII
(Kinh số 111-120)

,(111)
Rơi Vào Ðọa Xứ
,- Này các Tỷ-kheo, ba hạng người này rơi vào đọa xứ, rơi vào địa ngục, trừ phi họ đoạn bỏ pháp này.
,Thế nào là ba?
,Ai sống không Phạm hạnh, tự xưng là có sống Phạm hạnh; đối với người sống Phạm hạnh thanh tịnh, hành Phạm hạnh thật thanh tịnh, ai công kích là không Phạm hạnh một cách không căn cứ; ai chủ trương như sau:
,- "Không có lỗi lầm trong các dục vọng"
và rơi vào say đắm trong các dục vọng; những hạng người này, là ba hạng người rơi vào trong đọa xứ, rơi vào địa ngục, trừ phi họ đoạn bỏ pháp này.

,(112)
Khó Tìm Ðược
,- Sự xuất hiện của ba hạng người này, khó tìm được ở đời.
,Thế nào là ba?
,1. Này các Tỷ-kheo, sự xuất hiện của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác, khó tìm được ở đời.
,2. Người có thể thuyết pháp và luật do Như Lai tuyên thuyết, khó tìm được ở đời.
,3. Người tri ân, người biết ơn, khó tìm được ở đời.
,Sự xuất hiện của ba hạng người này, khó tìm được ở đời.

,(113)
Không Thể Ước Lượng
,- Có ba hạng người này, có mặt, xuất hiện ở đời.
,Thế nào là ba?
,Dễ ước lượng, khó ước lượng và không thể ước lượng.
,1. Và thế nào là người dễ ước lượng?
,Ở đây, có người tháo động, kiêu căng, dao động, lắm mồm lắm miệng, lắm lời, thất niệm không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn thả lỏng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người dễ ước lượng.
,2. Và thế nào gọi là người khó ước lượng?
,Ở đây, có hạng người không tháo động, không kiêu căng, không dao động, không lắm mồm lắm miệng, không lắm lời, trú niệm, tỉnh giác, định tĩnh, nhất tâm, các căn được bảo vệ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người khó ước lượng.
,3. Và thế nào gọi là người không thể ước lượng?
,Ở đây, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc được đoạn tận. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người không thể ước lượng.
,Ba hạng người này, có mặt, xuất hiện ở đời.

,(114)
Vô Sắc Giới
,- Có ba hạng người này, có mặt, xuất hiện ở đời.
,Thế nào là ba?
,1. Ở đây, có người hoàn toàn vượt qua sắc tưởng, chấm dứt đối ngại tưởng, không tác ý các tưởng sai biệt, xem "hư không là vô biên", đạt đến an trú vào Không vô biên xứ. Vị ấy thưởng thức cảnh giới ấy, hy cầu cảnh giới ấy, thỏa mãn với cảnh giới ấy, an trú trong cảnh giới ấy, tín giải cảnh giới ấy, an trú nhiều trong cảnh giới ấy, không có từ bỏ cảnh giới ấy, đến khi mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên đã đạt đến Không vô biên xứ.
,Này các Tỷ-kheo, thọ mạng của chư Thiên đã đạt đến Không vô biên xứ là hai mươi ngàn kiếp.
,Kẻ phàm phu, sau khi trú ở đấy cho đến hết thọ mạng, sau khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng của chư Thiên ấy, kẻ ấy đi vào địa ngục, đi vào loại bàng sanh, đi vào cõi ngạ quỷ. Nhưng đệ tử của Thế Tôn, sau khi trú ở đấy cho hết thọ mạng, sau khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng của chư Thiên ấy, cuối cùng nhập Niết-bàn trong hiện hữu ấy.
,Ðây là sự đặc thù, đây là sự tăng thượng, đây là sự sai biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe nhiều và kẻ vô văn phàm phu về vấn đề sanh thú và tái sanh.
,2. Lại nữa, ở đây có người vượt qua Không vô biên xứ, xem "thức là vô biên", đạt đến an trú Thức vô biên xứ. Vị ấy thưởng thức cảnh giới ấy, hy cầu cảnh giới ấy, thỏa mãn với cảnh giới ấy, an trú trong cảnh giới ấy, tín giải cảnh giới ấy, an trú nhiều trong cảnh giới ấy, không có từ bỏ cảnh giới ấy, đến khi mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên đã đạt Thức vô biên xứ.
,Này các Tỷ-kheo, thọ mạng của chư Thiên đã đạt đến Thức vô biên xứ là bốn mươi ngàn kiếp.
,Kẻ phàm phu, sau khi trú ở đấy cho đến hết thọ mạng, sau khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng của chư Thiên ấy, kẻ ấy đi vào địa ngục, đi vào loại bàng sanh, đi vào cõi ngạ quỷ. Nhưng đệ tử của Thế Tôn, sau khi trú ở đấy cho hết thọ mạng, sau khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng của chư Thiên ấy, cuối cùng nhập Niết-bàn trong hiện hữu ấy.
,Ðây là sự đặc thù, đây là sự tăng thượng, đây là sự sai biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe nhiều và kẻ vô văn phàm phu về vấn đề sanh thú và tái sanh.
,3. Lại nữa, ở đây có người vượt qua Thức vô biên xứ, xem "không có gì cả", đạt đến an trú Vô sở hữu xứ. Vị ấy thưởng thức cảnh giới ấy, hy cầu cảnh giới ấy, thỏa mãn với cảnh giới ấy, an trú trong cảnh giới ấy, tín giải cảnh giới ấy, không có từ bỏ cảnh giới ấy, đến khi mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên đã đạt Vô sở hữu xứ.
,Này các Tỷ-kheo, thọ mạng của chư Thiên đã đạt đến Vô sở hữu xứ là sáu mươi ngàn kiếp.
,Kẻ phàm phu, sau khi trú ở đấy cho đến hết thọ mạng, sau khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng của chư Thiên ấy, kẻ ấy đi vào địa ngục, đi vào loại bàng sanh, đi vào cõi ngạ quỷ. Nhưng đệ tử của Thế Tôn, sau khi trú ở đấy cho hết thọ mạng, sau khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng của chư Thiên ấy, cuối cùng nhập Niết-bàn trong hiện hữu ấy.
,Ðây là sự đặc thù, đây là sự tăng thượng, đây là sự sai biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe nhiều và kẻ vô văn phàm phu về vấn đề sanh thú và tái sanh.
,Ba hạng người này, có mặt, xuất hiện ở đời.


,(115)
Khiếm Khuyết Và Viên Mãn
[1]
,- Này các Tỷ-kheo, có ba sự khiếm khuyết này.
,Thế nào là ba?
,Khiếm khuyết về giới, khiếm khuyết về tâm, khiếm khuyết về tri kiến.
,1. Và thế nào là khiếm khuyết về giới?
,Ở đây, có người sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là khiếm khuyết về giới.
,2. Và thế nào là khiếm khuyết về tâm?
,Ở đây, có người tham lam, với tâm sân hận.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là khiếm khuyết về tâm.
,3. Và thế nào là khiếm khuyết về tri kiến?
,Ở đây, có người có tà kiến, có tri kiến điên đảo:
,- "Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có cúng tế, không có quả dị thục trong các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời sau, không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh, ở đời không có các hàng Sa-môn, Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình với thắng trí, giác ngộ và truyền dạy lại cho đời này, đời sau".
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là khiếm khuyết về tri kiến.
,4. Do nhân khiếm khuyết về giới, các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do nhân khiếm khuyết về tâm, các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do nhân khiếm khuyết về tri kiến, các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
,Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba khiếm khuyết.
[2]
,- Này các Tỷ-kheo, có ba viên mãn này.
,Thế nào là ba?
,Viên mãn về giới, viên mãn về tâm, viên mãn về tri kiến.
,1. Và thế nào là viên mãn về giới?
,Ở đây, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là viên mãn về giới.
,2. Và thế nào là viên mãn về tâm?
,Ở đây, có người không tham lam, không có tâm sân hận.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là viên mãn về tâm.
,3. Và thế nào là viên mãn về tri kiến?
,Ở đây, có người có chánh kiến, không có tri kiến điên đảo:
,- "Có bố thí, có lễ hy sinh, có cúng tế, có quả dị thục trong các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh, ở đời có các hàng Sa-môn, Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình với thắng trí, giác ngộ và truyền dạy lại cho đời này, đời sau".
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là viên mãn về tri kiến.
,4. Do nhân viên mãn về giới, các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này. Do nhân viên mãn về tâm, các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh lên cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này. Do nhân viên mãn về tri kiến, các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh lên cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này.
,Những pháp này, này các Tỷ- kheo, là ba viên mãn.

,(116)
Chính Xác
[1]
,1. Này các Tỷ kheo, có ba khiếm khuyết này, thế nào là ba?
,Khiếm khuyết về giới, khiếm khuyết về tâm, khiếm khuyết về tri kiến...
,(Như kinh 115, [1])
,2. Ví như, một hột súc sắc chính xác, nếu được liệng về mặt trên, được nằm về mặt ấy, được nằm khéo đặt. Cũng vậy, do nhân khiếm khuyết về giới, các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục... Do nhân khiếm khuyết về tâm,.. Do nhân khiếm khuyết về tri kiến... sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
,Các pháp này, này các Tỷ kheo, là ba khuyết điểm.
[2]
,1. Này các Tỷ-kheo, có ba viên mãn này.
,Thế nào là ba?
,Viên mãn về giới, viên mãn về tâm, viên mãn về tri kiến...
,(Như kinh 115, [2])
,2. Ví như, một hột súc sắc chính xác, nếu được liệng về mặt trên, được nằm về mặt ấy, được nằm khéo đặt. Cũng vậy, do nhân viên mãn về giới... do nhân viên mãn về tâm ... do nhân viên mãn về tri kiến, các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi thiện, cõi trời, cõi đời này.
,Các pháp này, này các Tỷ kheo, là ba viên mãn.

,(117)
Hành Ðộng
,- Này các Tỷ-kheo, có ba khiếm khuyết này.
,Thế nào là ba?
,Khiếm khuyết về hành động, khiếm khuyết về sanh kế, khiếm khuyết về tri kiến.
,1. Và thế nào là khiếm khuyết về hành động?
,Ở đây, người sát sanh ...
,(Như kinh 115; [1]-1)
,... nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây là khiếm khuyết về hành động.
,2. Và thế nào là khiếm khuyết về sanh kế?
,Ở đây, có người theo tà sanh kế, nuôi sống bằng tà sanh kế. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là khiếm khuyết về sanh kế.
,3. Và thế nào là khiếm khuyết về tri kiến?
,(Như kinh 115; [1]-3).
[2]
,- Này các Tỷ-kheo, có ba viên mãn này.
,Thế nào là ba?
,Viên mãn về hành động, viên mãn về sanh kế, viên mãn về tri kiến.
,1. Và thế nào là viên mãn về hành động?
,(Như kinh 115; [2]-1)
,2. Và thế nào là viên mãn về sanh kế?
,Ở đây, có người theo chánh sanh kế, nuôi sống bằng chánh sanh kế. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là viên mãn về sanh kế.
,3. Và thế nào là viên mãn về tri kiến?
,(Như kinh 115; [2]-3)
,Này các Tỷ-kheo, các pháp này là ba viên mãn.

,(118)
Thanh Tịnh (1)
,- Này các Tỷ-kheo, có ba thanh tịnh này.
,Thế nào là ba?
,Thân thanh tịnh, lời nói thanh tịnh, ý thanh tịnh.
,1. Thế nào là thân thanh tịnh?
,Ở đây, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, này các Tỷ-kheo, đây gọi là thân thanh tịnh.
,2. Và thế nào là lời nói thanh tịnh?
,Ở đây, có người từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là lời nói thanh tịnh.
,3. Và thế nào là ý thanh tịnh?
,Ở đây, có người không có tham lam, với tâm không sân không hận, có chánh tri kiến. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ý thanh tịnh.
,Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba thanh tịnh.

,(119)
Thanh Tịnh (2)
[1]
,- Này các Tỷ-kheo, có ba thanh tịnh này,
,Thế nào là ba?
,Thân thanh tịnh, lời nói thanh tịnh, ý thanh tịnh.
,1. Và thế nào là thân thanh tịnh?
,(Như kinh 118, về thân thanh tịnh).
,2. Và thế nào là lời nói thanh tịnh?
,(Như kinh 118, về lời nói thanh tịnh).
,3. Và thế nào là ý thanh tịnh?
[2]
,1. Ở đây, vị Tỷ-kheo, nếu nội tâm có ước muốn về tham dục, vị ấy rõ biết:
,- "Nội tâm ta có ước muốn về dục".
,Nếu nội tâm không có ước muốn về dục, vị ấy rõ biết:
,- "Nội tâm ta không có ước muốn về dục".
,Ước muốn về dục chưa sanh khởi, được sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Ước muốn về dục đã sanh khởi, được đoạn trừ thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Và ước muốn về dục đã được đoạn trừ, tương lai không sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy.
,2. Nếu nội tâm có sân, vị ấy rõ biết:
,- "Nội tâm ta có sân".
,Nếu nội tâm không có sân, vị ấy rõ biết:
,- "Nội tâm ta không có sân".
,Sân chưa sanh khởi, được sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Sân đã sanh khởi, được đoạn trừ thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Và sân đã được đoạn trừ, tương lai không sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy.
,3. Nếu tâm có hôn trầm thụy miên, vị ấy rõ biết:
,- "Nội tâm ta có hôn trầm thụy miên".
,Nếu nội tâm không có hôn trầm thụy miên, vị ấy rõ biết:
,- "Nội tâm ta không có hôn trầm thụy miên".
,Hôn trầm thụy miên chưa sanh khởi, được sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Hôn trầm thụy miên đã sanh khởi, được đoạn trừ thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Và hôn trầm thụy miên đã được đoạn trừ, tương lai không sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy.
,4. Nếu tâm có trạo hối, vị ấy rõ biết:
,- "Nội tâm ta có trạo hối".
,Nếu nội tâm không có trạo hối, vị ấy rõ biết:
,- "Nội tâm ta không có trạo hối".
,Trạo hối chưa sanh khởi, được sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Trạo hối đã sanh khởi, được đoạn trừ thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Và trạo hối đã được đoạn trừ, tương lai không sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy.
,5. Nếu tâm có nghi, vị ấy rõ biết:
,- "Nội tâm ta có nghi".
,Nếu nội tâm không có nghi, vị ấy rõ biết:
,- "Nội tâm ta không có nghi".
,Nghi chưa sanh khởi, được sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Nghi đã sanh khởi, được đoạn trừ thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Và nghi đã được đoạn trừ, tương lai không sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ý thanh tịnh.
,Các pháp này, là ba thanh tịnh.
,Thân và lời thanh tịnh
,Tâm thanh tịnh vô lậu
,Trong sạch được thanh tịnh
,Ðược gọi ác đoạn trừ.

,(120)
Toàn Hảo
,- Này các Tỷ-kheo, có ba sự toàn hảo.
,Thế nào là ba?
,Toàn hảo về thân, toàn hảo về lời nói, toàn hảo về ý.
,1. Và thế nào là toàn hảo về thân?
,(Như kinh 118)
,2. Và thế nào là toàn hảo về lời nói?
,(Như kinh 118)
,3. Và thế nào là toàn hảo về ý?
,Ở đây, Tỷ-kheo do đoạn trừ có lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ý toàn hảo.
,Này các Tỷ-kheo, các pháp này là ba toàn hảo.
,Thân và lời toàn hảo,
,Tâm toàn hảo vô lậu,
,Toàn hảo, được toàn hảo
,Ðược gọi đoạn tất cả.

PHẨM XIII
(Kinh số 121-130)

,(121)
Tại Kusinàra
,Một thời Thế Tôn trú ở Kusinàra, tại khóm rừng Bariharana. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
,- Này các Tỷ-kheo.
,- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
,Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
,1- Ở đây, một Tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn. Rồi người gia chủ hay con người gia chủ đi đến vị ấy mời mai lại dùng cơm. Nếu muốn, Tỷ-kheo nhận lời. Sau khi đêm ấy đã mãn, Tỷ-kheo ấy vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát và đi đến trú xứ người gia chủ hay con người gia chủ. Sau khi đến, vị ấy ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi người gia chủ hay con người gia chủ tự tay đứng mời và làm cho thỏa mãn Tỷ-kheo ấy với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm. Vị ấy suy nghĩ:
,- "Thật tốt lành thay, người gia chủ hay con người gia chủ này tự tay đứng mời và làm thỏa mãn ta với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm!"
,Rồi vị ấy suy nghĩ như sau:
,- "Mong rằng người gia chủ hay con người gia chủ này trong tương lai, tự tay đứng mời và làm thỏa mãn ta với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm!".
,Vị ấy thọ hưởng món ăn khất thực ấy, tham dính say đắm, đam trước, không thấy sự nguy hại, không thấy được sự xuất ly. Vị ấy ở đây khởi lên suy tầm về dục, khởi lên sự suy tầm về sân, khởi lên sự suy tầm về hại.
,Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng bố thí cho Tỷ-kheo như vậy không có quả lớn. Vì cớ sao? Tỷ-kheo sống phóng dật.
,2. Nhưng ở đây, một Tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn. Rồi một gia chủ hay con người gia chủ đi đến vị ấy mời mai lại dùng cơm. Nếu muốn, Tỷ-kheo nhận lời. Sau khi đêm ấy đã mãn, Tỷ-kheo ấy vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát và đi đến trú xứ người gia chủ hay con người gia chủ. Sau khi đến, vị ấy ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi người gia chủ hay con người gia chủ tự tay đứng mời và làm cho thỏa mãn Tỷ-kheo ấy với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm. Vị ấy không có suy nghĩ:
,- "Thật tốt lành thay, người gia chủ hay con người gia chủ này tự tay đứng mời và làm thỏa mãn ta với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm!".
,Rồi vị ấy không suy nghĩ như sau:
,- "Mong rằng người gia chủ hay con người gia chủ này trong tương lai, tự tay đứng mời và làm thỏa mãn ta với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm!".
,Vị ấy thọ hưởng món ăn khất thực ấy, không tham dính, không say đắm, không đam trước, thấy được sự nguy hại, thấy được sự xuất ly. Vị ấy ở đây khởi lên suy tầm về viễn ly, khởi lên sự suy tầm về vô sân, khởi lên sự suy tầm về vô hại.
,Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng bố thí cho Tỷ-kheo như vậy có quả lớn. Vì cớ sao? Tỷ-kheo không sống phóng dật.

,(122)
Tranh Luận
,1- Tại phương hướng nào, các Tỷ-kheo sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau với binh khí miệng lưỡi, thật không thoải mái cho ta, khi nghĩ đến phương hướng ấy, còn nói gì đến chỗ ấy. Ở đây, Ta đi đến kết luận như sau:
,- "Thật vậy, các Tỷ-kheo ấy đã từ bỏ ba pháp và đã làm quá nhiều ba pháp".
,Ba pháp họ đã từ bỏ là gì?
,Viễn ly tầm, vô sân tầm, bất hại tầm. Ba pháp này họ đã từ bỏ.
,Ba pháp gì họ đã làm quá nhiều?
,Dục tầm, sân tầm, hại tầm. Ba pháp này họ đã làm quá nhiều.
,Tại phương hướng nào, các Tỷ-kheo sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau với binh khí miệng lưỡi, thật không thoải mái cho ta, khi nghĩ đến phương hướng ấy, còn nói gì đến chỗ ấy. Ở đây, Ta đi đến kết luận như sau:
,- "Thật vậy, các Tỷ-kheo ấy đã từ bỏ ba pháp này và đã làm quá nhiều ba pháp này".
,2- Tại phương hướng nào, các Tỷ-kheo sống hòa hợp, hoan hỷ, không đấu tranh nhau, như sữa và nước lẫn lộn, nhìn nhau với cặp mắt ái kính, đi đến phương hướng ấy thật thoải mái cho ta, còn nói gì nghĩ đến phương hướng ấy. Ở đây, Ta đi đến kết luận như sau:
,- "Thật vậy, các Tỷ-kheo ấy đã từ bỏ ba pháp này và đã làm quá nhiều ba pháp này".
,Ba pháp họ đã từ bỏ là gì?
,Dục tầm, sân tầm, hại tầm. Ba pháp này họ đã từ bỏ.
,Ba pháp gì họ đã làm quá nhiều?
,Viễn ly tầm, vô sân tầm, bất hại tầm.
,Tại phương hướng nào, các Tỷ-kheo sống hòa hợp, hoan hỷ, không đấu tranh nhau, như sữa và nước lẫn lộn, nhìn nhau với cặp mắt ái kính, đi đến phương hướng ấy thật thoải mái cho ta, còn nói gì nghĩ đến phương hướng ấy. Ở đây, Ta đi đến kết luận như sau:
,- "Thật vậy, các Tỷ-kheo ấy đã từ bỏ ba pháp này và đã làm quá nhiều ba pháp này".

,(123)
Ðiện Thờ Gotama
,Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại điện thờ Gotama. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
,- Này các Tỷ-kheo.
,- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
,Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
,- Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp với thắng trí, không phải với không thắng trí. Ta thuyết pháp với nhân duyên, không phải với không nhân duyên. Ta thuyết pháp với thần thông, không phải với không thần thông.
,Này các Tỷ-kheo, do vì Ta thuyết pháp có thắng trí, không phải với không thắng trí; do vì Ta thuyết pháp có nhân duyên, không phải không có nhân duyên; do vì Ta thuyết pháp có thần thông, không phải không có thần thông, nên giáo giới cần phải làm, giảng dạy cần phải làm. Thật là vừa đủ, để các Thầy bằng lòng. Thật là vừa đủ để các Thầy hân hoan. Thật là vừa đủ để các Thầy hoan hỷ, Chánh Ðẳng Giác là Thế Tôn! Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, khéo hành trì là chúng Tăng!
,Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ lời Thế Tôn giảng.
,Trong khi lời thuyết giảng này được nói lên, một ngàn thế giới đều rung động.

,(124)
Bharandu
,1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala và đi đến Kapilavatthu. Họ Thích Mahànàma nghe tin Thế Tôn đã đến Kapilavatthu. Rồi họ Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với Mahànàma:
,- Hãy đi, này Mahànàma và tìm xem ở Kapilavatthu có chỗ nào, tại chỗ ấy, hôm nay chúng ta sẽ trú lại một đêm.
,- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
,2. Họ Thích Mahànàma vâng đáp Thế Tôn, đi vào Kapilavatthu, đi khắp toàn vùng Kapilavatthu và không thấy một chỗ nào, Thế Tôn có thể trú một đêm. Rồi Mahànàma đi đến Thế Tôn, sau khi đến bạch Thế Tôn:
,- Bạch Thế Tôn, ở Kapilavatthu không có chỗ nào, tại đây, hôm nay Thế Tôn có thể trú một đêm. Nhưng có Bharandu, người Kàlàmà này, trước tu Phạm hạnh với Thế Tôn. Hôm nay, Thế Tôn hãy ở một đêm tại am thất của vị ấy.
,- Này Mahànàma, hãy đi và trải một tấm thảm cho ta ở đó.
,- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
,Họ Thích Mahànàma vâng đáp Thế Tôn, đi đến am thất của Bharandu người Kàlàmà, sau khi đến, trải tấm thảm, đặt nước để rửa chân, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, bạch Thế Tôn:
,- Bạch Thế Tôn, tấm thảm đã trải, nước để rửa chân đã sẵn sàng, bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy làm gì Ngài nghĩ là phải thời!
,3. Rồi Thế Tôn đi đến am thất của Bharandu người Kàlàmà, sau khi đến, ngồi xuống chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn rửa chân.
,Rồi họ Thích Mahànàma nghĩ như sau:
,- "Nay không phải thời để hầu hạ Thế Tôn. Thế Tôn đang mệt mỏi. Ngày mai ta sẽ đến hầu hạ Thế Tôn".
,Nghĩ vậy xong bèn đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về ngài rồi đi ra.
,Họ Thích Mahànàma, sau khi đêm ấy đã mãn, đi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Mahànàma:
,- Này Mahànàma, có ba vị đạo sư có mặt, xuất hiện ở đời.
,Thế nào là ba?
,4. Ở đây, này Mahànàma, có vị đạo sư trình bày sự biến tri của các dục vọng, nhưng không trình bày sự biến tri của các sắc, không trình bày sự biến tri của các cảm thọ. Ở đây, có vị đạo sư trình bày sự biến tri của các dục vọng, trình bày sự biến tri của các sắc, nhưng không trình bày sự biến tri của các cảm thọ. Nhưng ở đây, có vị đạo sư trình bày sự biến tri của các dục vọng, trình bày sự biến tri của các sắc, trình bày sự biến tri của các cảm thọ.
,Này Mahànàma, có ba vị đạo sư này có mặt, xuất hiện ở đời.
,Trong ba vị này, này Mahànàma, kết luận là một hay là sai khác?
,5. Khi được nói như vậy, Bharandu, người Kàlàmà, nói với họ Thích Mahànàma:
,- Này Mahànàma, hãy nói là một.
,Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với họ Thích Mahànàma:
,- Này Mahànàma, hãy nói là khác.
,Lần thứ hai, Brahandu, người Kàlàmà nói với họ Thích Mahànàma:
,- Này Mahànàma, hãy nói là một.
,Lần thứ hai, Thế Tôn nói với họ Thích Mahànàma:
,- Này Mahànàma, hãy nói là khác.
,Lần thứ ba Brahandu, người Kàlàmà nói với họ Thích Mahànàma:
,- Này Mahànàma, hãy nói là một.
,Lần thứ ba, Thế Tôn nói với họ Thích Mahànàma:
,- Này Mahànàma, hãy nói là khác.
,6. Rồi Bharandu, người Kàlàmà suy nghĩ như sau:
,- "Trước mặt họ Thích Mahànàma có thế lực lớn này, ta bị Sa-môn Gotama nói trái ngược cho đến lần thứ ba. Vậy ta hãy rời khỏi Kapilavatthu".
,Rồi Bharandu người Kàlàmà đi ra khỏi Kapilavatthu, một sự ra đi khỏi Kapilavatthu, không bao giờ có trở lại nữa.

,(125)
Hatthaka
,1. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetanava, khu vườn của Anàthapindika.
,Rồi Thiên tử Hatthaka, sau khi đêm đã gần tàn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetanava đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, vị ấy nghĩ:
,- "Ta sẽ đứng thẳng trước Thế Tôn",
nhưng vị ấy chìm xuống, lún xuống, không có thể đứng thẳng; ví như thục tô hay dầu đổ trên cát, chìm xuống, lún xuống, không thể giữ lại. Cũng vậy, Thiên tử Hatthaka nghĩ rằng:
,- "Ta sẽ đứng thẳng trước mặt Thế Tôn",
nhưng vị ấy chìm xuống, lún xuống, không thể đứng thẳng.
,2. Rồi Thế Tôn nói với Thiên tử Hatthaka:
,- Này Hatthaka, hãy hóa thành một tự thể thô xấu.
,- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
,Thiên tử Hatthaka vâng đáp Thế Tôn sau khi hóa thành một tự thể thô xấu, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với Thiên tử Hatthaka:
,- Này Hatthaka, các pháp được diễn tiến trước kia, khi Ông còn làm người, các pháp ấy được diễn tiến hiện nay đối với Ông không?
,- Bạch Thế Tôn, các pháp được diễn tiến trước kia, khi con còn làm người, các pháp ấy có được diễn tiến hiện nay với con. Và bạch Thế Tôn, có các pháp không được diễn tiến trước kia, khi con còn làm người, các pháp ấy có được diễn tiến hiện nay đối với con.
,Ví như, bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn sống, được các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, các vua chúa, các đại thần của vua, các ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo đoanh vây. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con sống được các Thiên tử đoanh vây. Từ xa, bạch Thế Tôn, các Thiên tử đi đến, nghĩ rằng:
,- "Chúng ta hãy đến nghe pháp từ Thiên tử Hatthaka".
,Có ba pháp, bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ vừa đủ, con chết con vẫn còn ân hận luyến tiếc.
,Thế nào là ba?
,Bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ vừa đủ được thấy Thế Tôn, con chết con vẫn còn ân hận luyến tiếc. Bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ vừa đủ được nghe Diệu pháp, con chết con vẫn còn ân hận luyến tiếc. Bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ được phục vụ hầu hạ chúng Tăng, con chết con vẫn còn ân hận luyến tiếc.
,Có ba pháp này, bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ vừa đủ. Con chết con vẫn còn ân hận luyến tiếc.
,Con thấy không vừa đủ
,Khi được gặp Thế Tôn
,Ðược phục vụ chúng Tăng
,Ðược lắng nghe Diệu pháp
,Học tập tăng thượng giới
,Thích thú nghe Diệu pháp
,Do đối với ba pháp
,Cảm thấy không vừa đủ
,Thiên tử Hatthaka
,Ðược sanh vô phiền thiên.

,(126)
Thối Nát
,1. Một thời, Thế Tôn trú ở Bàrànasi, tại Isipatana vườn Nai
,Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Ba-la-nại để khất thực. Thế Tôn, trong khi đi khất thực tại Goyogapilakkha, gần cây sung, chỗ cột đàn bò, thấy một Tỷ-kheo hưởng thọ hương vị trống không, không có Thiền định, hưởng thọ hương vị hướng ngoại của vật dục, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, với tâm tán loạn, với các căn phóng túng. Thấy vậy, Thế Tôn liền nói với vị Tỷ-kheo ấy:
,- Này Tỷ-kheo, này Tỷ-kheo! Thầy chớ có làm cho tự ngã trở thành thối nát. Này Tỷ-kheo, ai làm cho tự ngã thối nát đầy ứ, thoát ra toàn mùi hôi thối, rồi mong rằng các loài ruồi lằng sẽ không bu đậu, sẽ không có chiếm cứ, sự kiện như vậy không xảy ra.
,2. Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn giáo giới với lời giáo giới như vậy, cảm thấy xúc động mạnh.
,Rồi Thế Tôn, sau khi đi khất thực ở Ba-la-nại xong, sau bữa ăn, sau khi đi khất thực trở về, bảo các Tỷ-kheo:
,- Này các Tỷ-kheo, ở đây, sau khi đắp y vào buổi sáng, Ta cầm lấy y bát, đi vào Ba-la-nại để khất thực. Này các Tỷ-kheo, trong khi đi khất thực tại Goyogapilakkha, Ta thấy một Tỷ-kheo hưởng thọ hương vị trống không, không có Thiền định, hưởng thọ hương vị hướng ngoại của vật dục, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, với tâm tán loạn, với các căn phóng túng. Thấy vậy, Ta liền nói với vị Tỷ-kheo ấy:
,- Này Tỷ-kheo, này Tỷ-kheo! Thầy chớ có làm cho tự ngã trở thành thối nát. Này Tỷ-kheo, ai làm cho tự ngã thối nát đầy ứ, thoát ra toàn mùi hôi thối, rồi mong rằng:
,- "Các loài ruồi lằng sẽ không bu đậu, sẽ không có chiếm cứ, sự kiện như vậy không xảy ra".
,Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được ta giáo giới với lời giáo giới này, cảm thấy xúc động mạnh.
,3. Khi nghe nói như vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
,- Bạch Thế Tôn, thối nát cái gì, mùi hôi thối cái gì, các loài ruồi lằng là gì?
,- Tham cầu, này các Tỷ-kheo, là thối nát; sân là mùi hôi thối, các suy tầm ác bất thiện là ruồi lằng. Này các Tỷ-kheo, ai làm cho các tự ngã thối nát, đầy ứ, thoát ra mùi hôi thối, rồi mong rằng:
,- "Các loài ruồi lằng sẽ không bu đậu, sẽ không chiếm cứ",
sự kiện như vậy không xảy ra.
,Tai mắt không giữ gìn
,Các căn không phòng hộ
,Ruồi lằng sẽ bu đậu
,Các tư duy tham ái
,Tỷ-kheo làm thối nát
,Ðầy ứ những mùi hôi
,Xa thay là Niết-bàn!
,Chịu phần về bất hạnh
,Tại làng hay trong rừng
,Tự ngã không an tịnh
,Kẻ ngu và không trí
,Ði đứng đầy ruồi lằng
,Ai đầy đủ giới luật
,Thích tịch tịnh trí tuệ
,Sống an tịnh hạnh phúc
,Mọi ruồi lằng diệt trừ.

,(127)
Anuruddha (1)
,1. Rồi Tôn giả Anuruddha đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Anuruddha bạch Thế Tôn:
,- Ở đây, bạch Thế Tôn, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, con thấy phần lớn các nữ nhân, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do đầy đủ với bao nhiêu pháp, bạch Thế Tôn, các nữ nhân, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục?
,2. Do đầy đủ ba pháp, các nữ nhân, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
,Thế nào là ba?
,Ở đây, này Anuruddha, nữ nhân vào buổi sáng sống ở trong nhà, tâm bị ám ảnh bởi cấu uế của xan lẫn; vào buổi trưa sống ở trong nhà, tâm bị ám ảnh bởi cấu uế của tật đố; vào buổi chiều sống ở trong nhà, tâm bị ám ảnh cấu uế của dục tham.
,Do đầy đủ với ba pháp này, này Anuruddha các nữ nhân, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

,(128)
Anuruddha (2)
,1. Rồi Tôn giả Anuruddha đi đến Tôn giả Sàriputta, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Anuruddha nói với Tôn giả Sàriputta:
,- Thưa Tôn giả Sàriputta, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên, tôi có thể nhìn một ngàn thế giới. Phấn chấn là tinh tấn của tôi; không có thụ động, niệm được an trú, không có thất niệm; tâm được khinh an, không có cuồng nhiệt; tâm được định tĩnh nhất tâm. Tuy vậy, tâm của tôi chưa được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có không chấp thủ.
,2. Này Hiền giả Anuruddha, Hiền giả suy nghĩ như sau:
,- "Với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, tôi có thể nhìn một ngàn thế giới".
,Ðây là kiêu mạn của Hiền giả. Này Hiền giả Anuruddha, nếu Hiền giả suy nghĩ như sau:
,- "Phấn chấn là tinh tấn của tôi; không có thụ động, niệm được an trú, không có thất niệm; tâm được khinh an, không có cuồng nhiệt; tâm được định tĩnh nhất tâm",
đây là trạo cử của Hiền giả. Này Hiền giả Anuruddha, Hiền giả suy nghĩ như sau:
,- "Tuy vậy, tâm của tôi chưa được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có không chấp thủ";
đây là hối quá của Hiền giả. Lành thay, nếu Tôn giả Anuruddha đoạn trừ ba pháp này, không tác ý ba pháp này, hãy chú tâm vào giới bất tử.
,3. Rồi Tôn giả Anuruddha, sau môt thời gian, sau khi đoạn trừ ba pháp này, sau khi không tác ý ba pháp này, chú tâm vào giới bất tử. Rồi Tôn giả Anuruddha sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu đạt được mục đích mà một thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chính là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, sau khi chứng ngộ, chứng đạt, vị ấy an trú. Vị ấy chứng tri:
,- "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa».
,Tôn giả Anuruddha trở thành một vị A-la-hán nữa.

,(129)
Che Giấu
,1. Này các Tỷ-kheo, có ba pháp này được che giấu khi thực hành, không có hiển lộ.
,Thế nào là ba?
,Sở hành của nữ nhân, được che dấu khi thực hành, không có hiển lộ. Chú thuật của Bà-la-môn, được che dấu khi thực hành, không có hiển lộ. Tà kiến, được che dấu khi thực hành, không có hiển lộ.
,Ba pháp này, được che giấu khi thực hành, không có hiển lộ.
,2. Này các Tỷ-kheo, ba pháp này chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu.
,Vành tròn của mặt trăng, chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu. Vành tròn của mặt trời, chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu. Pháp và Luật được Thế Tôn tuyên thuyết, chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu.
,Ba pháp này chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu.

,(130)
Chữ Viết Trên Ðá, Trên Ðất, Trên Nước
,- Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
,Thế nào là ba?
,Hạng người như chữ viết trên đá, hạng người như chữ viết trên đất, hạng người như chữ viết trên nước.
,1. Và thế nào là hạng người như chữ viết trên đá?
,Ở đây, có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của người này tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo, ví như chữ viết trên đá không bị gió hay nước tẩy xóa mau chóng, được tồn tại lâu dài. Cũng vậy, ở đây có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của người này tiếp tục lâu dài.
,Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là hạng người như chữ được viết trên đá.
,2. Và thế nào là hạng người như chữ viết trên đất?
,Ở đây, có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của người này không tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo, ví như chữ viết trên đất bị gió hay nước tẩy xóa mau chóng, không có tồn tại lâu dài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của người này không có tiếp tục lâu dài.
,Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là hạng người như chữ được viết trên đất.
,3. Và thế nào là hạng người như chữ viết trên nước?
,Ở đây, có người dầu bị nói một cách kịch liệt, dầu có bị nói một cách ác độc, dầu có bị nói một cách thô lỗ, tuy vậy vẫn dễ dàng hòa hợp, thân thiện, và hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, ví như chữ viết trên nước được mau chóng biến mất, không có tồn tại lâu dài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có người dầu bị nói một cách kịch liệt, dầu có bị nói một cách ác độc, dầu có bị nói một cách thô lỗ, tuy vậy vẫn dễ dàng hòa hợp, thân thiện, và hoan hỷ.
,Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là hạng người như chữ được viết trên nước.
,Ba hạng người này, có mặt, xuất hiện ở đời.

PHẨM XIV
(Kinh số 131-140)

,(131)
Kẻ Chiến Sĩ
[1]
,1. Ðầy đủ ba đức tánh, một kẻ chiến sĩ xứng đáng cho vua sử dụng, thuộc sở hữu của vua, là biểu tượng của vua.
,Ở đây, kẻ chiến sĩ là người bắn xa, bắn như chớp nhoáng và đâm thủng được vật lớn.
,Ðầy đủ ba đức tánh này, một kẻ chiến sĩ xứng đáng cho vua sử dụng, thuộc sở hữu của vua, là biểu tượng của vua.
,2. Cũng vậy, đầy đủ ba đức tánh, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời.
,Thế nào là ba?
,Ở đây, Tỷ-kheo là kẻ bắn xa, bắn như chớp nhoáng và đâm thủng được vật to lớn.
[2]
,1. Và thế nào là Tỷ-kheo bắn xa?
,Ở đây, Tỷ-kheo phàm có sắc gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả sắc, vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng:
,- "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
,Phàm có cảm thọ gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả cảm thọ, vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng:
,- "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
,Phàm có tưởng gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả tưởng, vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng:
,- "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
,Phàm có các hành gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả các hành, vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng:
,- "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
,Phàm có thức gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả các thức, vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng:
,- "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
,2. Và thế nào là Tỷ-kheo bắn như chớp nhoáng?
,Ở đây, Tỷ-kheo như thật tuệ tri: "Ðây là khổ", như thật tuệ tri: "Ðây là khổ tập"; như thật tuệ tri: "Ðây là khổ diệt"; như thật tuệ tri: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt";
,Như vậy, là Tỷ-kheo bắn như chớp nhoáng.
,3. Và thế nào là Tỷ-kheo đâm thủng vật to lớn?
,Ở đây, Tỷ-kheo đâm thủng vô minh uẩn to lớn.
,Như vậy, là Tỷ-kheo đâm thủng vật to lớn.
,Ðầy đủ ba đức tánh này, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời.

,(132)
Hội Chúng
,- Này các Tỷ-kheo, có ba hội chúng này.
,Thế nào là ba?
,Hội chúng điêu luyện về khoa trương, hội chúng điêu luyện về chất vấn, hội chúng điêu luyện về tùy theo sở thích.
,Này các Tỷ-kheo, có ba hội chúng này.

,(133)
Bạn
,- Này các Tỷ-kheo, có đầy đủ ba đức tánh, một người bạn cần được thân cận.
,Thế nào là ba?
,Ở đây, Tỷ-kheo cho điều khó cho, làm điều khó làm, nhẫn điều khó nhẫn. Này các Tỷ-kheo, đầy đủ ba đức tánh, một người bạn cần được thân cận.

,(134)
Xuất Hiện
,1- Này các Tỷ-kheo, dầu các Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện, vẫn được an trú là pháp trú tánh của giới ấy, là pháp quyết định tánh, tức là:
,- "Tất cả các hành là vô thường".
,Vấn đề này, Như Lai chánh giác tri, chánh giác ngộ, sau khi chánh giác tri, chánh giác ngộ, Như Lai tuyên bố, thuyết giảng, tuyên thuyết, xác nhận, khai thị, phân biệt, hiển thị:
,- "Tất cả các hành là vô thường".
,2. Này các Tỷ-kheo, dầu các Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện, vẫn được an trú là pháp trú tánh của giới ấy, là pháp quyết định tánh, tức là:
,- "Tất cả các hành là khổ".
,Về vấn đề này, Như Lai chánh giác tri, chánh giác ngộ, sau khi chánh giác tri, chánh giác ngộ, Như Lai tuyên bố, thuyết giảng, tuyên thuyết, xác nhận, khai thị, phân biệt, hiển thị:
,- "Tất cả các hành là khổ".
,3. Này các Tỷ-kheo, dầu các Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện, vẫn được an trú là pháp trú tánh của giới ấy, là pháp quyết định tánh, tức là:
,- "Tất cả các pháp là vô ngã".
,Về vấn đề này, Như Lai chánh giác tri, chánh giác ngộ. Sau khi chánh giác tri, chánh giác ngộ, Như Lai tuyên bố, thuyết giảng, tuyên thuyết, xác nhận, khai thị, phân biệt, hiển thị:
,- "Tất cả các pháp là vô ngã".

,(135)
Mền Bằng Tóc
,1. Ví như, trong tất cả loại vải được dệt, mền được dệt bằng tóc được xem là hạ liệt nhất. Mền được dệt bằng tóc, khi trời lạnh thì lạnh, khi trời nóng thì nóng, xấu xí, có mùi hôi, xúc chạm khó chịu.
,Cũng vậy, trong các chủ thuyết của các Sa-môn ngoại đạo tuyên bố, chủ thuyết của Makkhali được xem là hèn hạ nhất.
,Này các Tỷ-kheo, Makkhali, kẻ ngu si có thuyết như sau; có kiến như sau:
,- "Không có nghiệp, không có nghiệp quả, không có tinh tấn".
,2. Này các Tỷ-kheo, những ai là các vị A-la-hán trong thời quá khứ, các vị Chánh Ðẳng Giác, các bậc Thế Tôn; các vị ấy đều chủ trương có nghiệp, đều chủ trương có nghiệp quả, đều chủ trương có tinh tấn. Nhưng chỉ có Makkhali, kẻ ngu si nói phản lại tất cả:
,- "Không có nghiệp, không có nghiệp quả, không có tinh tấn".
,3. Này các Tỷ-kheo, những ai là các vị A-la-hán trong thời vị lai, các vị Chánh Ðẳng Giác, các bậc Thế Tôn; các vị ấy đều chủ trương có nghiệp, đều chủ trương có nghiệp quả, đều chủ trương có tinh tấn. Nhưng chỉ có Makkhali, kẻ ngu si nói phản lại tất cả:
,- "Không có nghiệp, không có nghiệp quả, không có tinh tấn".
,4. Còn Ta, nay là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác cũng chủ trương có nghiệp, chủ trương có nghiệp quả, chủ trương có tinh tấn. Nhưng chỉ có Makkhali, kẻ ngu si nói phản lại tất cả:
,- "Không có nghiệp, không có nghiệp quả, không có tinh tấn".
,5. Ví như, tại cửa sông, có người đặt một cái sập bẫy cá đem đến bất hạnh, đau khổ, tổn hại, nguy hại cho các loại cá. Cũng vậy, Makkhali, kẻ ngu si xuất hiện ở đời như cái bẫy sập người, đem lại bất hạnh, đau khổ, tổn hại, nguy hại cho nhiều loài hữu tình.

,(136)
Thành Tựu Tăng Trưởng
,- Này các Tỷ-kheo, có ba sự thành tựu này.
,Thế nào là ba?
,Thành tựu về tín, thành tựu về giới, thành tựu về tuệ.
,Này các Tỷ-kheo, các pháp này là ba sự thành tựu.
,Này các Tỷ-kheo, có ba sự tăng trưởng.
,Thế nào là ba?
,Tăng trưởng về tín, tăng trưởng về giới, tăng trưởng về tuệ.
,Này các Tỷ-kheo, ba pháp này là ba tăng trưởng.

,(137)
Ngựa Chưa Ðược Ðiều Phục
[1]
,- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về ba loại ngựa chưa được điều phục và Ta sẽ giảng về ba hạng người chưa được điều phục. Hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
,- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
,Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
,1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba loại ngựa chưa được điều phục?
,Ở đây, có loại ngựa chưa được điều phục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối: bề cao, chu vi, bề ngoài. Nhưng ở đây, có loại ngựa chưa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối. Nhưng ở đây, có loại ngựa chưa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, và cân đối.
,Ba loại này, là ba loại ngựa chưa được điều phục.
,2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba hạng người chưa được điều phục?
,Ở đây, có hạng người chưa được điều phục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Nhưng ở đây, có hạng người chưa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối. Nhưng ở đây, có hạng người chưa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, và cân đối.
,Ba loại này, là ba hạng người chưa được điều phục.
[2]
,1. Thế nào, là hạng người chưa được điều phục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối?
,Ở đây, Tỷ-kheo như thật rõ biết: "Ðây là khổ"; như thật rõ biết: "Ðây là khổ tập"; như thật rõ biết: "Ðây là khổ diệt"; như thật rõ biết: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Nhưng khi được hỏi về thắng pháp thắng luật, vị ấy lại ngập ngừng không có trả lời. Ðây Ta nói trong nghĩa không có sắc đẹp. Vị ấy không có nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối. Như vậy, là người chưa có điều phục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối.
,2. Như thế nào, là hạng người chưa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không cân đối?
,Ở đây, Tỷ-kheo như thật rõ biết: "Ðây là khổ"; như thật rõ biết: "Ðây là khổ tập"; như thật rõ biết: "Ðây là khổ diệt"; như thật rõ biết: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Nhưng khi được hỏi về thắng pháp thắng luật, vị ấy trả lời là không có ngập ngừng. Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy không có nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối. Như vậy, là người chưa có điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối.
,3. Như thế nào, là hạng người chưa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối?
,Ở đây, Tỷ-kheo như thật rõ biết: "Ðây là khổ"; như thật rõ biết: "Ðây là khổ tập"; như thật rõ biết: "Ðây là khổ diệt"; như thật rõ biết: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Nhưng khi được hỏi về thắng pháp thắng luật, vị ấy liền trả lời không có ngập ngừng. Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy có nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa có cân đối. Như vậy, là người chưa có điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối.
,Những hạng người này, là ba hạng người chưa có cân đối.

,(138)
Ngựa Ðược Ðiều Phục
[1]
,- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về ba loại ngựa được điều phục và Ta sẽ giảng về ba hạng người chưa được điều phục. Hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
,- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
,Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
,1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba loại ngựa được điều phục?
,Ở đây, có loại ngựa được điều phục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Nhưng ở đây, có loại ngựa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối. Nhưng ở đây, có loại ngựa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, và cân đối.
,Ba loại này, là ba loại ngựa được điều phục.
,2. Và thế nào là ba hạng người được điều phục?
,Ở đây, có hạng người được điều phục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Nhưng ở đây, có hạng người được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối. Nhưng ở đây, có hạng người được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, và cân đối.
,Ba loại này, là ba hạng người được điều phục.
[2]
,1. Và thế nào là hạng người được điều phục, có tốc lực, người không có sắc đẹp, không có cân đối?
,Ở đây, Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, tại đấy được nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui đời ấy nữa. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Nhưng khi được hỏi về thắng pháp thắng luật, vị ấy ngập ngừng, vị ấy không có trả lời. Ðây Ta nói trong nghĩa không có sắc đẹp. Vị ấy không nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối.
,Như vậy, là hạng người được điều phục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối.
,2. Và thế nào là hạng người được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối?
,Ở đây, Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, tại đấy được nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui đời ấy nữa. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Nhưng khi được hỏi về thắng pháp thắng luật, vị ấy trả lời không có ngập ngừng. Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy không nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối.
,Như vậy, là hạng người được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối.
,3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối?
,Ở đây, Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, tại đấy được nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui đời ấy nữa. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Nhưng khi được hỏi về thắng pháp thắng luật, vị ấy trả lời không có ngập ngừng. Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa có cân đối.
,Như vậy, là hạng người được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối.
,Những hạng người này, là ba hạng người được điều phục.

,(139)
Các Loại Ngựa Thuần Thục
[1]
,- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng về ba loại ngựa hiền thiện, thuần thục, ba hạng người hiền thiện, thuần thục. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
,1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba loại ngựa hiền thiện, thuần thục?
,Ở đây, có loại ngựa hiền thiện, thuần thục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Ở đây, có loại ngựa hiền thiện, thuần thục có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối. Ở đây, có loại ngựa hiền thiện, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối.
,Những loại này, là ba loại ngựa hiền thiện, thuần thục.
,2. Và thế nào là ba hạng người hiền thiện, thuần thục?
,Ở đây, có hạng người hiền thiện, thuần thục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Ở đây, có hạng người hiền thiện, thuần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối. Ở đây, có hạng người hiền thiện, thuần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối.
,Những hạng người này, là ba hạng người hiền thiện, thuần thục.
[2]
,1. Như thế nào, là hạng người hiền thiện, thuần thục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối?
,Ở đây, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Khi được hỏi về thắng pháp và thắng luật, vị ấy ngập ngừng không trả lời. Ðây Ta nói trong nghĩa không có sắc đẹp. Vị ấy không nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối.
,Như vậy, là hạng người hiền thiện, thần thục, có tốclực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối.
,2. Như thế nào, là hạng người hiền thiện, thuần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối?
,Ở đây, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Khi được hỏi về thắng pháp và thắng luật, vị ấy liền trả lời không có ngập ngừng. Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy không nhận được các đồtư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối.
,Như vậy, là hạng người hiền thiện, thần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối.
,3. Như thế nào, là hạng người hiền thiện, thuần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối?
,Ở đây, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Khi được hỏi về thắng pháp và thắng luật, vị ấy trả lời không ngập ngừng. Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa có cân đối.
,Như vậy, là hạng người hiền thiện, thần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối.
,Ba hạng người này, là ba hạng người hiền thiện, thuần thục.

,(140)
Morannivàpa
,1. Một thời, Thế Tôn ở Ràjagaha tại Moranivàpa. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
,- Này các Tỷ-kheo.
,- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
,Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
,- Ðầy đủ ba pháp, vị Tỷ-kheo đạt đến tột cùng tối hảo, tột cùng an ổn khỏi các khổ ách, tột cùng Phạm hạnh, tột cùng cứu cánh, tối thượng giữa chư Thiên và loài Người.
,Thế nào là ba?
,Với vô học giới uẩn, với vô học định uẩn, với vô học tuệ uẩn, đầy đủ ba pháp này, vị Tỷ-kheo là tột cùng tối hảo, tột cùng an ổn khỏi các khổ ách, tột cùng Phạm hạnh, tột cùng cứu cánh, bậc tối thượng giữa chư Thiên và loài Người.
,2. Ðầy đủ với ba pháp này, một Tỷ-kheo là tột cùng tối hảo, tột cùng an ổn khỏi các khổ ách, tột cùng Phạm hạnh, tột cùng cứu cánh, bậc tối thượng giữa chư Thiên và loài Người.
,Thế nào là ba?
,Với thần biến thần thông, với ký thuyết thần thông, với giáo giới thần thông; đầy đủ với ba pháp này, vị Tỷ-kheo là tột cùng tối hảo, tột cùng an ổn khỏi các khổ ách, tột cùng Phạm hạnh, tột cùng cứu cánh, bậc tối thượng giữa chư Thiên và loài Người
,3. Ðầy đủ với ba pháp này, một Tỷ-kheo là tột cùng tối hảo, tột cùng an ổn khỏi các khổ ách, tột cùng Phạm hạnh, tột cùng cứu cánh, bậc tối thượng giữa chư Thiên và loài Người. Thế nào là ba?
,Với chánh tri kiến, với chánh trí, với chánh giải thoát, đầy đủ với ba pháp này, một Tỷ-kheo là tột cùng tối hảo, tột cùng an ổn khỏi các khổ ách, tột cùng Phạm hạnh, tột cùng cứu cánh, bậc tối thượng giữa chư Thiên và loài Người.

PHẨM XV
(Kinh số 141-150)

,(141)
Không Thiện
,1. Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, bị rơi vào địa ngục.
,Thế nào là ba?
,Với thân làm không thiện, với lời nói không thiện, với ý nghĩ không thiện, đầy đủ ba pháp này, tương xứng như vậy, bị rơi vào địa ngục.
,2. Ðầy đủ ba pháp, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, được sanh lên cõi trời.
,Thế nào là ba?
,Với thân làm thiện, với lời nói thiện, với ý nghĩ thiện, đầy đủ ba pháp này, tương xứng như vậy, được sanh lên cõi trời.

,(142)
Có Phạm Tội
,1. Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, bị rơi vào địa ngục.
,Thế nào là ba?
,Với thân làm có tội, với lời nói có tội, với ý nghĩ có tội, đầy đủ ba pháp này, tương xứng như vậy, bị rơi vào địa ngục.
,2. Ðầy đủ ba pháp, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, được sanh lên cõi trời.
,Thế nào là ba?
,Với thân làm không có tội, với lời nói không có tội, với ý nghĩ không có tội, đầy đủ ba pháp này, tương xứng như vậy, sanh lên cõi Trời.

,(143)
Không Thăng Bằng
,(Như kinh trên, chỉ khác là không thăng bằng và thăng bằng)

,(144)
Bất Tịnh
,(Như kinh trên, chỉ khác là bất tịnh và tịnh)

,(145)
Mất Gốc (1)
,1. Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu si, không thông minh, không phải bậc Chân nhân, tự mình xử sự như kẻ mất gốc, bị thương tích, có phạm tội, bị người trí quở trách, làm nhiều điều vô phước.
,Thế nào là ba?
,Với thân làm không thiện, với lời nói không thiện, với ý nghĩ không thiện, đầy đủ ba pháp này, kẻ ngu si, không thông minh, không phải bậc Chân nhân, tự mình xử sự như kẻ mất gốc, bị thương tích, có phạm tội, bị người trí quở trách, làm nhiều điều vô phước.
,2. Ðầy đủ ba pháp này, bậc Hiền sĩ thông minh, là bậc Chân nhân, không tự mình xử sự như kẻ mất gốc, không bị thương tích, không có phạm tội, không bị người trí quở trách, làm nhiều điều phước lành.
,Thế nào là ba?
,Với thân làm thiện, với lời nói thiện, với ý nghĩ thiện, đầy đủ ba pháp này, bậc Hiền sĩ không thông minh, là bậc Chân nhân, không tự mình xử sự như kẻ mất gốc, không bị thương tích, không có phạm tội, không bị người trí quở trách, làm nhiều điều phước lành.

,(146)
Mất Gốc (2)
,(Như kinh trên, chỉ khác là có phạm tội, không phạm tội) ...

,(147)
Mất Gốc (3)
,(Như kinh trên, chỉ khác là có thăng bằng, không thăng bằng) ...

,(148)
Mất Gốc (4)
,(Như kinh trên, chỉ khác là bất tịnh, và tịnh) ...

,(149)
Kính Lễ
,- Này các Tỷ-kheo, có ba loại kính lễ này.
,Thế nào là ba?
,Với thân, với lời nói, với ý, các pháp này, là ba loại kính lễ.

,(150)
Buổi Sáng Tốt Ðẹp
,- Các loại hữu tình nào, vào buổi sáng, thân làm việc thiện, nói lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu tình ấy, có một buổi sáng tốt đẹp.
,Các loại hữu tình nào, vào buổi trưa, thân làm việc thiện, nói lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu tình ấy, có một buổi trưa tốt đẹp.
,Các loại hữu tình nào, vào buổi chiều, thân làm việc thiện, nói lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu tình ấy, có một buổi chiều tốt đẹp.
,Vầng sao lành, điều lành
,Rạng đông lành, dậy lành
,Sát-na lành, thời lành
,Cúng dường bậc Phạm hạnh
,Thân nghiệp chánh, lời chánh
,Ý nghiệp chánh, nguyện chánh
,Làm các điều chơn chánh
,Thì được lợi an lạc
,Lớn mạnh trong Phật giáo
,Hãy không bệnh an lạc
,Cùng tất cả bà con.

PHẨM XVI
(Kinh số 151-163)

,(151)
Ðạo Lộ (1)
,- Này các Tỷ-kheo, có ba đạo lộ này.
,Thế nào là ba?
,Thâm cố đạo lộ, kịch khổ đạo lộ, trung đạo lộ.
,1. Và thế nào là thâm cố đạo lộ?
,Ở đây, có người nói như sau, thấy như sau:
,- "Không có tội lớn trong các dục vọng"
và rơi vào say đắm trong các dục vọng.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thâm cố đạo lộ.
,2. Và thế nào là kịch khổ đạo lộ?
,Ở đây, có người sống lõa thể, sống phóng túng, không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, đi khất thực không chịu đứng lại, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn đặc biệt nấu cho mình, không nhận mời đi ăn, không nhận đồ ăn từ nơi nồi chảo, không nhận đồ ăn từ ngưỡng cửa, không nhận đồ ăn đặt giữa những cây gậy, không nhận đồ ăn đặt giữa những cối giã gạo, không nhận đồ ăn từ hai người đang ăn, không nhận đồ ăn từ người đàn bà có thai, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận đồ ăn tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ ăn từ chỗ có ruồi bu, không ăn cá, thịt, không uống rượu nấu, rượu men, cho đến không uống cháo. Vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng, hay vị ấy chỉ nhận ăn tại hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng. Hay vị ấy chỉ nhận ăn tại bảy nhà, chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với một bát, nuôi sống chỉ với hai bát, nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy, vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn uống, cho đến nửa tháng chỉ ăn một lần. Vị ấy ăn rau, ăn cây kê, ăn gạo sống, ăn gạo rừng, ăn cây lau, ăn bột gạo, ăn bột gạo cháy, ăn bột vừng, ăn cỏ, ăn phân bò, ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống.
,Vị ấy mang vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm liệm quăng đi, mặc vải lượm từ đống rác, dùng vỏ cây làm áo, mặc áo da con sơn dương đen, mặc áo bện từng mảnh da con sơn dương đen, mặc áo vải từ cỏ Kusa bện lại, mặc áo bằng vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cú.
,Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, là người theo tập tục sống nhổ râu tóc, là người theo hạnh thường đứng, không dùng chỗ ngồi, là người ngồi chõ hỏ, sống theo hạnh ngồi chõ hỏ một cách tinh tấn, là người dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm để gột sạch tội lỗi.
,Như vậy, dưới nhiều hình thức, vị ấy sống thực hành các hạnh hành hạ, hành khổ thân thể.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là kịch khổ đạo lộ.
,3. Và thế nào là trung đạo lộ?
,Ở đây, vị Tỷ-kheo quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục, tham ưu ở đời, quán thọ trên các cảm thọ ... quán tâm trên tâm ... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp nhục tham ưu ở đời.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là trung đạo lộ.
,Ba pháp này, là ba đạo lộ.

,(152)
Ðạo Lộ (2)
,- Này các Tỷ-kheo, có ba đạo lộ này.
,Thế nào là ba?
,Thâm cố đạo lộ, kịch khổ đạo lộ, trung đạo lộ.
,1. Và thế nào là thâm cố đạo lộ?
,(Như kinh trên, 151-1).
,2. Và thế nào là kịch khổ đạo lộ
,(Như kinh trên, 151-2).
,3. Và thế nào là trung đạo lộ?
,Ở đây,
,vị Tỷ-kheo với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sanh, không cho sanh khởi, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp đã sanh được trừ diệt, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa sanh, nay cho sanh khởi, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp đã được sanh có thể duy trì, không có mù mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên mãn, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm;
,vị ấy tu tập thần túc thông câu hữu với dục định tinh cần hành, tu tập thần túc thông câu hữu với tinh tấn định tinh cần hành, tu tập thần túc thông câu hữu với tâm định tinh cần hành, tu tập thần túc thông câu hữu với tư duy định tinh cần hành;
,tu tập tín căn, tu tập tấn căn, tu tập niệm căn, tu tập định căn, tu tập tuệ căn,
,tu tập tín lực, tu tập tấn lực, tu tập niệm lực, tu tập định lực, tu tập tuệ lực,
,tu tập niệm giác chi, tu tập trạch pháp giác chi, tu tập tinh tấn giác chi, tu tập hỷ giác chi, tu tập khinh an giác chi, tu tập định giác chi, tu tập xả giác chi,
,tu tập chánh tri kiến, tu tập chánh tư duy, tu tập chánh ngữ, tu tập chánh nghiệp, tu tập chánh mạng, tu tập chánh tinh tấn, tu tập chánh niệm, tu tập chánh định.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là trung đạo lộ.

,(153)
Sát Sanh
,1. Ðầy đủ ba pháp, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, bị rơi vào địa ngục.
,Thế nào là ba?
,Tự mình sát sanh, khích lệ người khác sát sanh, tùy hỷ sự sát sanh.
,Ðầy đủ ba pháp này, tương xứng như vậy, bị rơi vào địa ngục.
,2. Ðầy đủ ba pháp này, tương xứng như vậy được sanh thiên giới.
,Thế nào là ba?
,Tự mình từ bỏ sát sanh, khích lệ người khác từ bỏ sát sanh, tùy hỷ sự từ bỏ sát sanh.
,Ðầy đủ ba pháp này, tương xứng như vậy, được sanh thiên giới.

,(154)
Lấy Của Không Cho
,(Giống như kinh trên, chỉ khác đây là lấy của không cho)...

,(155)
Tà Hạnh Trong Dục Vọng
,(Giống như kinh trên, chỉ khác đây là tà hạnh trong dục vọng)...

,(156-162)
Tà ngữ
,(Giống như kinh trên, chỉ khác tuần tự các pháp sau này: nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham, sân, tà kiến )...

,(163)
Ðịnh
,1. Ðể thắng tri tham ái, này các Tỷ-kheo, ba pháp cần phải tu tập.
,Thế nào là ba?
,Không định, vô tướng định, vô nguyện định.
,Ðể thắng tri tham ái, ba pháp này cần phải tu tập.
,2. Này các Tỷ-kheo, để biến tri, biến diệt, đoạn tận, diệt tận, trừ diệt, ly tham, đoạn diệt, trừ khử, từ bỏ tham, ba pháp này, cần phải tu tập.
,3. Này các Tỷ-kheo, để biến tri, biến diệt, đoạn tận, diệt tận, trừ diệt, ly tham, đoạn diệt, trừ khử, từ bỏ sân... từ bỏ si... từ bỏ phẫn nộ... từ bỏ hận... từ bỏ giả dối... từ bỏ não hại... từ bỏ tật đố... từ bỏ xan lẫn... từ bỏ man trá... từ bỏ phản bội... từ bỏ ngoan cố... từ bỏ bồng bột nông nổi... từ bỏ mạn, từ bỏ tăng thượng mạn... từ bỏ kiêu... từ bỏ phóng dật, ba pháp này, cần phải tu tập.

,Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị Tỷ kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
...

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Trangphattu Yếu lược & Bố cục

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

PHẦN DẪN GIẢI-CHÚ THÍCH-BÌNH LUẬN

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.