[Các Liên Kết]

MỤC LỤC: KINH TẠNG

BỐN PHÁP—[Phẩm XIV-XVII]

Tăng Chi Bộ Kinh
(Anguttara Nikaya)
Tập 2

Chương
BỐN PHÁP
[Phẩm XIV-XVII—Kinh số 131-170]

———————————————————————————————
PHẨM XIV
(Kinh số 131-140)

,(131)
Kiết Sử
[1]
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời.
,Thế nào là bốn?
,1. Ở đây, đối với một hạng người, các hạ phần kiết sử không được đoạn tận, các kiết sử khiến được sanh không được đoạn tận, các kiết sử khiến được hữu không được đoạn tận.
,2. Nhưng ở đây, đối với một hạng người, các hạ phần kiết sử được đoạn tận, nhưng các kiết sử khiến được sanh không được đoạn tận, các kiết sử khiến được hữu không được đoạn tận.
,3. Nhưng ở đây, đối với một hạng người, các hạ phần kiết sử được đoạn tận, các kiết sử khiến được sanh được đoạn tận, nhưng các kiết sử khiến được hữu không được đoạn tận.
,4. Nhưng ở đây, đối với một hạng người, các hạ phần kiết sử được đoạn tận, các kiết sử khiến được sanh được đoạn tận, các kiết sử khiến được hữu được đoạn tận.
[2]
,1. Ðối với hạng người nào, các hạ phần kiết sử không được đoạn tận, các kiết sử khiến được tái sanh không được đoạn tận, các kiết sử khiến được hữu không được đoạn tận?
,Ðối với vị Nhất Lai. Ðối với hạng người này, các hạ phần kiết sử ... các kiết sử khiến được sanh ... các kiết sử khiến được hữu không được đoạn tận.
,2. Ðối với hạng người nào, các hạ phần kiết sử được đoạn tận, các kiết sử khiến được sanh không được đoạn tận, các kiết sử khiến được hữu không được đoạn tận?
,Ðối với hạng người Thượng lưu, đi đến Sắc cứu kính. Ðối với hạng người này... các kiết sử khiến được hữu không được đoạn tận.
,3. Ðối với hạng người nào, các hạ phần kiết sử được đoạn tận, các kiết sử khiến được sanh được đoạn tận, các kiết sử khiến được hữu không được đoạn tận?
,Ðối với hạng người Trung gian Bát-Niết-bàn. Ðối với hạng người này, các hạ phần kiết sử được đoạn tận, các kiết sử khiến được sanh được đoạn tận, các kiết sử khiến được hữu không được đoạn tận.
,4. Ðối với hạng người nào, các hạ phần kiết sử được đoạn tận, các kiết sử khiến được sanh được đoạn tận, các kiết sử khiến được hữu được đoạn tận?
,Ðối với bậc A-la-hán. Ðối với hạng người này, các hạ phần kiết sử được đoạn tận, các kiết sử khiến được sanh được đoạn tận, các kiết sử khiến được hữu được đoạn tận.
,Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.

,(132)
Trả Lời
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời.
,Thế nào là bốn?
,Trả lời tương ứng, trả lời không tự tại; trả lời tự tại, trả lời không tương ứng; trả lời tương ứng và trả lời tự tại; trả lời không tương ứng và trả lời không tự tại.
,Có bốn hạng người này, có mặt, hiện hữu ở đời.

,(133)
Lanh Trí
,- Có bốn hạng người này, có mặt, hiện hữu ở đời.
,Thế nào là bốn?
,Biết một cách tổng quát, biết một cách rộng rãi với các chi tiết, biết cần phải hướng dẫn, chỉ giỏi về chữ nghĩa.
,Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.

,(134)
Nỗ Lực
,- Có bốn hạng người này, có mặt, hiện hữu ở đời.
,Thế nào là bốn?
,Sống nhờ kết quả của nỗ lực, sống nhờ kết quả của hành động, sống không nhờ kết quả của hành động, sống không nhờ kết quả của nỗ lực; Sống nhờ kết quả của nỗ lực và sống nhờ kết quả của hành động; Sống không nhờ kết quả của nỗ lực và sống không nhờ kết quả của hành động.
,Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.

,(135)
Có Tội
,- Có bốn hạng người này, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?
,Có tội, nhiều tội, ít tội, không có tội.
,1. Và thế nào là hạng người có tội?
,Ở đây, có hạng người thành tựu với thân nghiệp có tội, thành tựu với khẩu nghiệp có tội, thành tựu với ý nghiệp có tội.
,Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người có tội.
,2. Và thế nào là hạng người nhiều tội?
,Ở đây, có hạng người thành tựu với thân nghiệp có tội nhiều, không tộiít, thành tựu với khẩu nghiệp có tội nhiều, không tội ít, thành tựu với ý nghiệp có tội nhiều, không tội ít.
,Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người với nhiều tội.
,3. Và thế nào là hạng người với ít tội?
,Ở đây, có hạng người thành tựu thân nghiệp với không tội nhiều, với có tội ít, thành tựu khẩu nghiệp với không tội nhiều, với có tội ít, thành tựu ý nghiệp với không tội nhiều, với có tội ít.
,Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người ít tội.
,4. Và thế nào là hạng người không tội?
,Ở đây, có hạng người thành tựu với thân nghiệp không có tội, thành tựu với khẩu nghiệp không có tội, thành tựu với ý nghiệp không có tội.
,Như vậy, này các Tỷ- kheo, là hạng người không có tội.
,Có bốn hạng người này, có mặt, hiện hữu ở đời.

,(136)
Có Giới (1)
,- Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.
,Thế nào là bốn?
,Ở đây, có hạng người không đầy đủ về giới, không đầy đủ về định, không đầy đủ về tuệ. Ở đây, có hạng người đầy đủ về giới, không đầy đủ về định, không đầy đủ về tuệ. Ở đây, có hạng người đầy đủ về giới, đầy đủ về định, không đầy đủ về tuệ. Ở đây, có hạng người đầy đủ về giới, đầy đủ về định, đầy đủ về tuệ.
,Có bốn hạng người này, có mặt, hiện hữu ở đời.

,(137)
Có Giới (2)
,- Có bốn hạng người này, có mặt, hiện hữu ở đời.
,Thế nào là bốn?
,1. Ở đây, có hạng người không kính trọng giới, không xem giới là tối thượng, không kính trọng định, không xem định là tối thượng, không kính trọng tuệ, không xem tuệ là tối thượng.
,2. Ở đây, có hạng người kính trọng giới, xem giới là tối thượng, không kính trọng định, không xem định là tối thượng, không kính trọng tuệ, không xem tuệ là tối thượng.
,3. Ở đây, có hạng người kính trọng giới, xem giới là tối thượng, kính trọng định, xem định là tối thượng, không kính trọng tuệ, không xem tuệ là tối thượng.
,4. Ở đây, có hạng người kính trọng giới, xem giới là tối thượng, kính trọng định, xem định là tối thượng, kính trọng tuệ, xem tuệ là tối thượng.
,Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.

,(138)
Viễn Ly
,- Có bốn hạng người này, có mặt, hiện hữu ở đời.
,Thế nào là bốn?
,Thân viễn ly, tâm không viễn ly; thân không viễn ly, tâm viễn ly; thân không viễn ly, tâm không viễn ly; thân viễn ly và tâm viễn ly.
,1. Này các Tỷ-kheo, thế nào là thân viễn ly, tâm không viễn ly?
,Ở đây, các hạng người sống tại các núi non, khóm rừng, các trú xứ xa vắng; vị ấy nghĩ đến dục tầm, nghĩ đến sân tầm, nghĩ đến hại tầm.
,Như vậy, là hạng người thân viễn ly, nhưng tâm không viễn ly.
,2. Này các Tỷ-kheo, thế nào là thân không viễn ly, nhưng tâm viễn ly?
,Ở đây, các hạng người không sống tại các núi non, khóm rừng, các trú xứ xa vắng; vị ấy tại đó nghĩ đến tầm xuất ly, nghĩ đến tầm vô sân, nghĩ đến tầm bất hại.
,Như vậy, là hạng người thân không viễn ly, nhưng tâm viễn ly.
,3. Này các Tỷ-kheo, thế nào là thân không viễn ly, tâm không viễn ly?
,Ở đây, các hạng người không sống tại các núi non, khóm rừng, các trú xứ xa vắng; Tại đấy, vị ấy nghĩ đến dục tầm, nghĩ đến sân tầm, nghĩ đến hại tầm.
,Như vậy, là hạng người thân không viễn ly, tâm không viễn ly.
,4. Này các Tỷ-kheo, thế nào là thân viễn ly và tâm viễn ly?
,Ở đây, các hạng người sống tại các núi non, khóm rừng, các trú xứ xa vắng; vị ấy tại đó nghĩ đến tầm xuất ly, nghĩ đến tầm không sân, nghĩ đến tầm không hại.
,Như vậy, là hạng người thân viễn ly và tâm viễn ly.
,Có bốn hạng người này, có mặt, hiện hữu ở đời.

,(139)
Thuyết Pháp
,- Có bốn hạng người thuyết pháp này.
,Thế nào là bốn?
,1. Ở đây, có hạng người thuyết pháp, ít nói và không liên hệ đến vấn đề; và hội chúng không thiện xảo về liên hệ hay không liên hệ. Như vậy, là hạng người thuyết pháp và vị ấy được xem là hạng người thuyết pháp cho một hội chúng tương tự.
,2. Ở đây, có hạng người thuyết pháp, ít nói và liên hệ đến vấn đề; và hội chúng thiện xảo về liên hệ hay không liên hệ. Như vậy, là hạng người thuyết pháp và vị ấy được xem là hạng người thuyết pháp cho một hội chúng tương tự.
,3. Nhưng ở đây, có hạng người thuyết pháp, nói nhiều và không liên hệ đến vấn đề; và hội chúng không thiện xảo về liên hệ hay không liên hệ. Như vậy, là hạng người thuyết pháp và vị ấy được xem là hạng người thuyết pháp cho một hội chúng tương tự.
,4. Nhưng ở đây, có hạng người thuyết pháp, nói nhiều và liên hệ đến vấn đề; và hội chúng thiện xảo về liên hệ hay không liên hệ. Như vậy, là hạng người thuyết pháp và vị ấy được xem là hạng người thuyết pháp cho một hội chúng tương tự.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người thuyết pháp này.

,(140)
Hạng Thuyết Trình
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng thuyết trình này.
,Thế nào là bốn?
,1. Có hạng thuyết trình, đi đến ngõ bí về nghĩa, không về văn;
,2. Có hạng thuyết trình, đi đến ngõ bí về văn, nhưng không về nghĩa;
,3. Có hạng thuyết trình, đi đến ngõ bí về nghĩa cũng như về văn;
,4. Có hạng thuyết trình, không đi đến ngõ bí về nghĩa cũng như về văn.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng thuyết trình này.
,Không có trường hợp nào, không có cơ hội này, là một người thành tựu bốn vô ngại giải, lại đi đến ngõ bí về nghĩa cũng như về văn.

PHẨM XV
(Kinh số 141-150)

,(141)
Hào Quang
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại hào quang.
,Thế nào là bốn?
,Hào quang mặt trăng, hào quang mặt trời, hào quang ngọn lửa, hào quang trí tuệ.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn loại hào quang này.
,Và này các Tỷ-kheo, loại tối thượng trong bốn loại hào quang là hào quang trí tuệ.

,(142)
Ánh Sáng
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại ánh sáng.
,Thế nào là bốn?
,Ánh sáng mặt trăng, ánh sáng mặt trời, ánh sáng ngọn lửa, ánh sáng trí tuệ.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn loại ánh sáng này. Và loại tối thượng trong bốn loại ánh sáng là ánh sáng trí tuệ.

,(143)
Ánh Lửa
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại ánh lửa.
,Thế nào là bốn?
,Ánh lửa mặt trăng, ánh lửa mặt trời, ánh lửa ngọn lửa, ánh lửa trí tuệ.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn loại ánh lửa này. Và loại tối thượng trong bốn loại ánh lửa là ánh lửa trí tuệ.

,(144)
Ánh Chiếu
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại ánh chiếu.
,Thế nào là bốn?
,Ánh chiếu mặt trăng, ánh chiếu mặt trời, ánh chiếu ngọn lửa, ánh chiếu trí tuệ.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn loại ánh chiếu này. Và loại tối thượng trong bốnloại ánh chiếu là ánh chiếu trí tuệ.

,(145)
Ánh Ðèn
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại ánh đèn.
,Thế nào là bốn?
,Ánh đèn mặt trăng, ánh đèn mặt trời, ánh đèn ngọn lửa, ánh đèn trí tuệ.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn loại ánh đèn này. Và loại tối thượng trong bốn loại ánh đèn là ánh đèn trí tuệ.

,(146)
Thời Gian (1)
,- Có bốn loại thời gian này.
,Thế nào là bốn?
,Nghe pháp đúng thời, đàm luận về pháp đúng thời, chỉ đúng thời, quán đúng thời.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn loại thời gian này.

,(147)
Thời Gian (2)
,1. Có bốn thời gian này, này các Tỷ-kheo, nếu khéo tu tập, nếu khéo vận chuyển, tuần tự đưa đến sự đoạn diệt các lậu hoặc.
,Thế nào là bốn?
,Nghe pháp đúng thời, đàm luận về pháp đúng thời, chỉ đúng thời, quán đúng thời.
,Bốn thời gian này, nếu khéo tu tập, khéo vận chuyển, tuần tự đưa đến sự đoạn diệt các lậu hoặc.
,2. Ví như, trên đỉnh núi, trời mưa nặng hột, và nước chảy theo triền thấp, tràn đầy hang núi, khe núi, thung lũng. Khi các hang núi, khe núi, thung lũng được tràn đầy, thời ao nhỏ được tràn đầy. Ao nhỏ được tràn đầy, thời ao lớn được tràn đầy. Ao lớn được tràn đầy, thời sông nhỏ được tràn đầy. Sông nhỏ được tràn đầy, thời sông lớn được tràn đầy. Sông lớn được tràn đầy, thời biển lớn đại dương được tràn đầy.
,Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bốn thời gian này, nếu khéo tu tập, nếu khéo vận chuyển, tuần tự đưa đến sự đoạn diệt các lậu hoặc.

,(148)
Hạnh Ác Về Lời Nói
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn hạnh ác về lời nói này.
,Thế nào là bốn?
,Nói láo, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời phù phiếm.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn hạnh ác về lời nói này.

,(149)
Hạnh Thiện Về Lời Nói
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn hạnh thiện về lời nói này.
,Thế nào là bốn?
,Nói thật, không nói hai lưỡi, nói lời nhu hòa, nói lời thông minh.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn hạnh thiện về lời nói này.

,(150)
Lõi (Tinh túy)
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn lõi này.
,Thế nào là bốn?
,Lõi về giới, lõi về định, lõi về tuệ, lõi về giải thoát.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn loại lõi này.

PHẨM XVI
(Kinh số 151-160)

,(151)
Các Căn
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn căn này.
,Thế nào là bốn?
,Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn căn này.

,(152)
Lực (1)
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn lực này.
,Thế nào là bốn?
,Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn lực này.

,(153)
Lực (2)
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn lực này.
,Thế nào là bốn?
,Tuệ lực, tấn lực, vô tội lực, năng nhiếp lực.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn lực này.

,(154)
Lực (3)
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn lực này.
,Thế nào là bốn?
,Niệm lực, định lực, vô tội lực, năng nhiếp lực.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn lực này.

,(155)
Lực (4)
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn lực này.
,Thế nào là bốn?
,Giản trạch lực, tu tập lực, vô tội lực, năng nhiếp lực.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn lực này.

,(156)
Kiếp
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn vô lượng của kiếp này.
,Thế nào là bốn?
,1. Khi kiếp chuyển thành, thật không dễ gì để ước tính có bao nhiêu năm như vậy, có nhiều trăm năm như vậy, có nhiều ngàn năm như vậy. Có nhiều trăm ngàn năm như vậy.
,2. Khi kiếp đã chuyển thành và dừng lại, thật không dễ gì ước tính như vậy.
,3. Khi kiếp chuyển hoại, thật không dễ gì ước tính có nhiều năm như vậy ... như vậy.
,4. Khi kiếp đã chuyển hoại và dừng lại, thật không dễ gì ước tính ... như vậy.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn vô lượng của kiếp này.

,(157)
Bệnh
,1- Này các Tỷ-kheo, có hai loại bệnh này.
,Thế nào là hai?
,Bệnh về thân và bệnh về tâm.
,Này các Tỷ-kheo, chúng ta thấy có chúng sanh tự nhận mình là không thân bệnh được một năm, tự nhận mình là không thân bệnh được hai năm, được ba ... được bốn ... được năm ... được mười ... được hai mươi ... được ba mươi ... được bốn mươi ... tự nhận mình là không thân bệnh được năm mươi năm, tự nhận mình là không thân bệnh được một trăm năm. Các chúng sanh ấy, rất khó tìm được ở đời là những chúng sanh tự nhận mình là không tâm bệnh dầu chỉ trong một khoảnh khắc, trừ những vị đã đoạn trừ các lậu hoặc.
,2- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại bệnh này cho người xuất gia.
,Thế nào là bốn?
,Ở đây, người có dục lớn, bực bội tức tối, không tự bằng lòng với các đồ vật như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Người ấy vì nhiều dục lớn, bực bội tức tối, không tự bằng lòng với các vật dụmg như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, khởi lên thèm khát, ác dục, muốn được các điều không được tán thán, muốn được các lợi dưỡng, cung kính, danh vọng. Vị ấy nỗ lực, cố gắng, tinh tấn để được các điều không được tán thán, muốn được các lợi dưỡng, cung kính, danh vọng. Vị ấy sau khi tính toán, đi đến các gia đình; sau khi tính toán, ngồi xuống; sau khi tính toán, thuyết pháp; sau khi tính toán, ngưng nín tiểu tiện, đại tiện.
,Như vậy, là bốn chứng bệnh của người xuất gia.
,3. Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải học tập như sau:
,- "Ta sẽ không có dục lớn, bực bội tức tối, tự bằng lòng với các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ta sẽ không khởi lên thèm khát, ác dục, muốn được các điều không đáng được tán thán, muốn được các lợi dưỡng, cung kính, danh vọng. Ta sẽ không nỗ lực, không cố gắng, không tinh tấn để được các lợi dưỡng, cung kính, danh vọng. Ta sẽ kham nhẫn lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm với ruồi và muỗi, với gió và mưa và các vật bò sát, (kham nhẫn) các hình thức nói phô khó chịu, khó chấp nhận. Ta sẽ chịu đựng các khổ thọ về thân, khởi lên khổ đau, nhói đau, mãnh liệt, kịch liệt, không khả hỷ, không khả ý, đứt mạng sống".
,Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.

,(158)
Thối Ðọa
,Tại đây, Tôn giả Sàriputta gọi các Tỷ-kheo:
,- Này các Hiền giả Tỷ-kheo.
,- Thưa vâng, Hiền giả.
,Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sàriputta. Tôn giả Sàriputta nói như sau:
,1- Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào thấy trên tự thân có bốn pháp này, cần phải đi đến kết luận rằng:
,- "Tôi thối đọa khỏi các thiện pháp ".
,Ðây được Thế Tôn gọi là thối đọa.
,Thế nào là bốn?
,Tham ái tăng thịnh, sân tăng thịnh, si tăng thịnh, đối với các vấn đề có mặt, không có mặt, không có tuệ nhãn soi thấu.
,Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào thấy trên tự thân có bốn pháp này, cần phải đi đến kết luận rằng:
,- "Tôi thối đọa khỏi các thiện pháp ".
,Ðây được Thế Tôn gọi là thối đọa.
,2. Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào thấy trên tự thân có bốn pháp này, cần phải đi đến kết luận rằng:
,- "Tôi không thối đọa khỏi các thiện pháp ".
,Ðây được Thế Tôn gọi là không thối đọa.
,Thế nào là bốn?
,Tham ái giảm thiểu, sân giảm thiểu, si giảm thiểu. Ðối với các vấn đề có mặt, không có mặt, có tuệ nhãn soi thấu.
,Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào thấy trên tự thân có bốn pháp này, cần phải đi đến kết luận rằng:
,- "Ta không thối đọa khỏi các thiện pháp ".
,Ðây được Thế Tôn gọi là không thối đọa.

,(159)
Tỷ-Kheo Ni
[1]
,1. Một thời, Tôn giả Ananda trú ở Kosambi, tại khu vườn Ghosita.
,Rồi một Tỷ-kheo ni gọi một người và nói:
,- Hãy đến đây, thưa Ông. Hãy đi đến Tôn giả Ananda, và nhân danh tôi, với đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ananda và nói:
,- Thưa Tôn giả, Tỷ-kheo-ni tên là ... bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Tỷ-kheo-ni với đầu đảnh lễ Tôn giả Ananda và nói như sau:
,- "Thưa Tôn giả, lành thay, nếu Tôn giả đi đến trú xứ của Tỷ-kheo-ni, đi đến Tỷ-kheo-ni ấy vì lòng từ mẫn".
,- Thưa vâng, nữ Tôn giả.
,2. Người ấy vâng đáp Tỷ-kheo-ni ấy, đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda, rồi ngồi xuống một bên, người ấy nói với Tôn giả Ananda:
,- Thưa Tôn giả, Tỷ-kheo-ni tên này bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, với đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ananda, và nói như sau:
,- "Thưa Tôn giả, lành thay, nếu Tôn giả đi đến trú xứ của Tỷ-kheo-ni, đi đến Tỷ-kheo-ni ấy vì lòng từ mẫn".
,Tôn giả Ananda im lặng nhận lời.
,3. Rồi Tôn giả Ananda, đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ Tỷ-kheo-ni. Tỷ-kheo-ni ấy thấy Tôn giả Ananda từ xa đi đến, sau khi thấy, liền trùm đầu và nằm trên giường. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Tỷ-kheo-ni ấy, sau khi đến, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
[2]
,Tôn giả Ananda nói với Tỷ-kheo-ni ấy:
,1- Này chị, thân này do đồ ăn được tác thành, y cứ vào đồ ăn; đồ ăn cần phải đoạn tận. Này chị, thân này do ái được tác thành, y cứ vào ái; ái cần phải đoạn tận. Này chị, thân này do kiêu mạn được tác thành, y cứ vào kiêu mạn; kiêu mạn cần phải đoạn tận. Này chị, thân này do dâm dục được tác thành, y cứ vào dâm dục; dâm dục, sự phá đổ cây cầu được Thế Tôn nói đến.
,2. Này chị, thân này do đồ ăn được tác thành, y cứ vào đồ ăn; đồ ăn cần phải đoạn tận. Như vậy, được nói đến, chính do duyên này được nói đến. Này chị, ở đây, Tỷ-kheo như lý quán sát thọ dụng món ăn không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được sống lâu, và được bảo dưỡng, để thân này khỏi bị thương hại, để hỗ trợ Phạm hạnh, nghĩ rằng:
,- "Như vậy, ta diệt trừ cảm thọ cũ và không cho khởi lên cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn".
,Vị ấy sau một thời gian, dầu cho y cứ vào đồ ăn, vẫn không đắm trước đồ ăn.
,Này chị, thân này do đồ ăn được tác thành, y cứ vào đồ ăn; đồ ăn cần phải đoạn tận. Như vậy, được nói đến, chính do duyên này được nói đến.
,3. Này chị, thân này do ái được tác thành, y cứ vào ái; ái cần phải đoạn tận. Như vậy, được nói đến, y cứ vào gì được nói đến như vậy?
,Ở đây, này chị, Tỷ-kheo nghe:
,- "Tỷ-kheo tên này do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát". Vị ấy suy nghĩ: "Thật vậy, ta cũng do đoạn tận các lậu hoặc ... ta sẽ chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát".
,Vị ấy, sau một thời gian, dầu y cứ vào ái, đoạn tận ái.
,Này chị, thân này do ái được tác thành, y cứ vào ái; ái cần phải đoạn tận. Như vậy, được nói đến, do duyên này được nói đến.
,4. Này chị, thân này do kiêu mạn được tác thành, y cứ vào kiêu mạn; kiêu mạn cần phải đoạn tận. Như vậy, được nói đến, y cứ vào gì được nói đến như vậy? Ở đây, này chị, Tỷ-kheo nghe:
,- "Tỷ-kheo tên này do đoạn diệt các lậu hoặc ... vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát". Vị ấy suy nghĩ: "Vậy sao ta không như vậy?".
,Vị ấy, sau một thời gian, dầu y cứ vào kiêu mạn, đoạn tận kiêu mạn.
,Này chị, thân này do kiêu mạn tác thành, y cứ vào kiêu mạn; kiêu mạn cần phải đọan tận. Như vâỵ được nói đến, do duyên này được nói đến.
,5. Này chị, thân này do dâm dục tác thành, dâm dục, sự phá đổ cây cầu được Thế Tôn nói đến.
[3]
,1. Rồi Tỷ-kheo-ni ấy, từ giường đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, với đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ananda, và thưa với Tôn giả Ananda:
,- Một lỗi con đã vi phạm, thưa Tôn giả, vì ngu đần, vì si mê, vì bất thiện. Thưa Tôn giả, mong Tôn giả Ananda chấp nhận cho con tội lỗi này là một tội lỗi để con ngăn ngừa trong tương lai!
,2. Thật vậy, này chị, thật sự chị đã phạm tội vì ngu đần, vì si mê, vì bất thiện. Chị đã làm như vậy. Này chị, vì Chị thấy phạm tội là phạm tội, và như Pháp phát lộ, nên chúng tôi chấp nhận tội ấy cho chị. Này chị, như vậy Luật của bậc Thánh được tăng trưởng khi thấy được phạm tội là phạm tội, và như pháp phát lộ để ngăn giữ trong tương lai.

,(160)
Luật Của Bậc Thiện Thệ
[1]
,- Này các Tỷ-kheo, khi bậc Thiện Thệ hay Luật của Thiện Thệ an trú ở đời là vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
,1. Và thế nào là Thiện Thệ?
,Ở đây, Như Lai có mặt ở đời, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Nghự Trượng Phu, Thiên Nhân sư, Phật, Thế Tôn. Này các Tỷ-kheo, đây là bậc Thiện Thệ.
,2. Và thế nào là Luật của bậc Thiện Thệ?
,Vị ấy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, nói lên Phạm hạnh, hoàn toàn đầy đủ trong sạch.
,Này các Tỷ-kheo, đây là Luật của bậc Thiện Thệ.
,Này các Tỷ-kheo, khi bậc Thiện Thệ hay Luật của Thiện Thệ an trú ở đời là vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
[2]
,- Có bốn pháp này, đưa đến diệu pháp hỗn loạn.
,Thế nào là bốn?
,1. Ở đây, các Tỷ-kheo học thuộc lòng kinh, được lãnh thọ sai lầm, với văn cú sắp đặt bị đảo lộn. Do văn cú bị sắp đặt đảo lộn, nên nghĩa lý bị hướng dẫn sai lạc. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ nhất đưa đến Diệu pháp hỗn loạn và biến mất.
,2. Lại nữa, các Tỷ-kheo là những người khó nói, thành tựu với những pháp khiến cho trở thành khó nói, khó kham nhẫn. Họ không kính trọng lời giáo giới.
,Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ hai đưa đến Diệu pháp hỗn loạn và biến mất.
,3. Lại nữa, đối với các Tỷ-kheo nghe nhiều, thông hiểu các tập A-hàm, bậc trì Pháp, trì Luật, trì toát yếu. Các vị ấy không nói lại kinh cho người khác một cách cẩn thận. Khi họ mệnh chung, kinh bị cắt đứt tại gốc rễ, không có chỗ ý cứ.
,Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ ba đưa đến Diệu pháp hỗn loạn và biến mất.
,4. Lại nữa, các Trưởng lão Tỷ-kheo là những vị sống đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly, không cố gắng tinh tấn để đạt được những gì chưa đạt được, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và những thế hệ sau tiếp nối theo tà kiến của họ. Thế hệ ấy cũng sống đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly, không cố gắng tinh tấn để đạt được những gì chưa đạt được, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
,Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ tư đưa đến Diệu pháp hỗn loạn và biến mất.
[3]
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp này đưa đến diệu pháp an trú, không hỗn loạn và không biến mất.
,Thế nào là bốn?
,1. Ở đây, các Tỷ-kheo học thuộc lòng kinh được khéo lãnh thọ, với văn cú sắp đặt đúng đắn. Do văn cú được sắp đặt đúng đắn, nên nghĩa lý được hướng dẫn đúng đắn.
,Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ nhất đưa đến Diệu pháp an trú không hỗn loạn và không biến mất.
,2. Lại nữa, các Tỷ-kheo là những người dễ nói, thành tựu với những pháp khiến cho trở thành dễ nói, kham nhẫn. Họ kính trọng những lời giáo giới.
,Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ hai đưa đến Diệu pháp an trú không hỗn loạn và không biến mất.
,3. Lại nữa, đối với các Tỷ-kheo nghe nhiều, thông hiểu các tập A-hàm, bậc trì Pháp, trì Luật, trì toát yếu. Các vị ấy nói lại kinh cho người khác một cách cẩn thận. Khi họ mệnh chung, kinh không bị cắt đứt tại gốc rễ, có chỗ ý cứ.
,Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ ba đưa đến Diệu pháp an trú không hỗn loạn và không biến mất.
,4. Lại nữa, các Trưởng lão Tỷ-kheo không là những vị sống đầy đủ, không lười biếng, không dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly, cố gắng, tinh tấn để đạt được những gì chưa đạt được, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và những thế hệ về sau tiếp nối theo chánh kiến của họ. Thế hệ ấy không sống đầy đủ, không lười biếng, không dẫn đầu về đọa lạc, không bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly, cố gắng, tinh tấn để đạt được những gì chưa đạt được, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
,Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ tư đưa đến Diệu pháp an trú không hỗn loạn và không biến mất.
,Này các Tỷ-kheo, bốn pháp này đưa đến diệu pháp được an trú, không bị hỗn loạn, không biến mất.

PHẨM XVII
(Kinh số 161-170)

,(161)
Ðạo Hành-Tóm Tằt
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn đạo hành này.
,Thế nào là bốn?
,Ðạo hành khổ, thắng trí chậm; Ðạo hành khổ, thắng trí nhanh; Ðạo hành lạc, thắng trí chậm; Ðạo hành lạc, thắng trí nhanh.
,Này các Tỷ-kheo, cố bốn đạo hành này.

,(162)
Ðạo Hành-Với Chi Tiết
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn đạo hành này.
,Thế nào là bốn?
,Ðạo hành khổ, thắng trí chậm; Ðạo hành khổ, thắng trí nhanh; Ðạo hành lạc, thắng trí.chậm; Ðạo hành lạc, thắng trí nhanh.
,1. Này các Tỷ-kheo, thế nào là đạo hành khổ, thắng trí chậm?
,Ở đây, có người bản tánh tham dục rất cường thịnh, luôn luôn cảm thọ khổ ưu do tham dục sanh; bản tánh sân rất cường thịnh, luôn luôn cảm thọ khổ ưu do sân hận sanh; bản tánh si rất cường thịnh, luôn luôn cảm thọ khổ ưu do si sanh. Với người ấy, năm căn này hiện ra rất mềm yếu, tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Do năm căn này mềm yếu, người ấy đạt được Vô gián định một cách chậm chạp để đoạn diệt các lậu hoặc.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành khổ, thắng trí chậm.
,2. Và thế nào là đạo hành khổ, thắng trí nhanh?
,Ở đây, có người bản tánh tham dục rất cường thịnh ... luôn luôn cảm thọ khổ ưu do si sanh. Với người ấy, năm căn này hiện ra hết sức dồi dào, tức là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Do năm căn này hết sức dồi dào, người ấy đạt được Vô gián định một cách mau chóng để đoạn tận các lậu hoặc.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành khổ, thắng trí nhanh.
,3. Này các Tỷ-kheo, thế nào là đạo hành lạc, thắng trí chậm?
,Ở đây, có người bản tánh tham dục không có cường thịnh ... thường không có cảm thọ khổ ưu do tham dục sanh ... bản tánh sân không có cường thịnh ... bản tánh si không có cường thịnh, thường không có cảm thọ khổ ưu do si sanh. Với người ấy, năm căn này hiện ra rất mềm yếu, tức là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Do năm căn này mềm yếu, người ấy đạt được Vô gián định một cách chậm chạp để đoạn tận các lậu hoặc.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành lạc, thắng trí chậm.
,4. Này các Tỷ-kheo, thế nào là đạo hành lạc, thắng trí nhanh?
,Ở đây, có hạng người bản tánh tham dục không có cường thịnh, thường không có cảm thọ khổ ưu do tham dục sanh; bản tánh sân không có cường thịnh, thường không có cảm thọ khổ ưu do sân sanh; bản tánh si không có cường thịnh, thường không có cảm thọ khổ ưu do si sanh. Với người ấy, năm căn này hiện ra rất dồi dào, tức là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Do năm căn này dồi dào, người ấy đạt được Vô gián định một cách nhanh chóng để đoạn tận các lậu hoặc.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành lạc, thắng trí nhanh.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn đạo hành này.

,(163)
Bất Tịnh
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn đạo hành này.
,Thế nào là bốn?
,Ðạo hành khổ, thắng trí chậm; Ðạo hành khổ, thắng trí nhanh; Ðạo hành lạc, thắng trí chậm; Ðạo hành lạc, thắng trí nhanh.
,1. Và thế nào là đạo hành khổ, thắng trí chậm?
,Ở đây, Tỷ-kheo sống quán bất tịnh trên thân, với tưởng nhàm chán đối với các món ăn, với tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, quán vô thường đối với tất cả hành, với tưởng chết, khéo an trú nội tâm. Vị ấy sống y cứ trên năm hữu học lực, tức là tín lực, tàm lực, quý lực, tấn lực, tuệ lực. Với vị ấy, năm căn này hiện ra rất mềm yếu, tức là tín căn ... tuệ căn. Vị ấy, do năm căn này hiện ra rất mềm yếu, đạt được Vô gián định một cách chậm chạp để đoạn diệt các lậu hoặc.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành khổ, thắng trí chậm.
,2. Và thế nào là đạo hành khổ, thắng trí nhanh?
,Ở đây, Tỷ-kheo sống quán bất tịnh trên thân, với tưởng nhàm chán đối với các món ăn, với tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, quán vô thường đối với tất cả hành, với tưởng chết, khéo an trú nội tâm. Vị ấy sống y cứ trên năm hữu học lực, tức là tín lực ... tuệ lực. Với vị ấy, năm căn này hiện khởi rất dồi dào, tức là tín căn ... tuệ căn. Vị ấy, do năm căn này hiện ra rất dồi dào, chứng được Vô gián định một cách nhanh chóng để đoạn tận các lậu hoặc.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành khổ, thắng trí nhanh.
,3. Này các Tỷ-kheo, thế nào là đạo hành lạc, thắng trí chậm?
,Ở đây, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện ... chứng và trú Thiền thứ nhất; làm cho tịnh chỉ tầm và tứ ... chứng và trú Thiền thứ hai; ly hỷ trú xả ... chứng và trú Thiền thứ ba ... xả lạc, xả khổ, chấm dứt khổ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy sống y cứ trên năm hữu học lực, tức là tín lực ... tuệ lực. Với vị ấy, năm căn này hiện khởi rất mềm yếu, tức là tín căn ... tuệ căn. Vị ấy, do năm căn mềm yếu này, đạt được Vô gián định một cách chậm chạp để đoạn tận các lậu hoặc.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành lạc, thắng trí chậm.
,4. Này các Tỷ-kheo, thế nào là đạo hành lạc, thắng trí nhanh?
,Ở đây, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện ... chứng và trú Thiền thứ nhất ... chứng và trú Thiền thứ hai ... chứng và trú Thiền thứ ba ... chứng và trú Thiền thứ tư ... Vị ấy sống y cứ trên năm hữu học lực này, tức là tín lực ... tuệ lực. Với vị ấy, năm căn này hiện khởi rất dồi dào, tức là tín căn ... tuệ căn. Do năm căn hiện khởi rất dồi dào này, vị ấy chứng được Vô gián định một cách nhanh chóng để đoạn tận các lậu hoặc.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành lạc, thắng trí nhanh.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn đạo hành này.

,(164)
Kham Nhẫn (1)
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn đạo hành này.
,Thế nào là bốn?
,Ðạo hành không kham nhẫn, đạo hành kham nhẫn, đạo hành nhiếp phục, đạo hành an tịnh.
,1. Và thế nào là đạo hành không kham nhẫn?
,Ở đây, có hạng người chưởi mắng lại kẻ đã chưởi mắng, sân hận lại với kẻ đã sân hận, gây lộn lại với kẻ đã gây lộn.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành không kham nhẫn.
,2. Và thế nào là đạo hành kham nhẫn?
,Ở đây, có hạng người không nhiếc mắng lại kẻ đã nhiếc mắng, không sân hận lại kẻ đã sân hận, không gây lộn lại với kẻ đã gây lộn.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành kham nhẫn.
,3. Và thế nào là đạo hành nhiếp phục?
,Ở đây, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Phàm do nhân duyên gì với nhãn căn này không được chế ngự, khiến cho tham ái, ưu bi, các ác bất thiện khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, sống với sự chế ngự nhãn căn.
,Khi tai nghe tiếng ... khi mũi ngửi hương ... khi lưỡi nếm vị ... khi thân cảm xúc ...
,Khi ý biết pháp, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Phàm do nhân duyên gì ý căn này không được chế ngự, khiến cho tham ái, ưu bi, các ác bất thiện khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, thọ trì ý căn, sống với sự chế ngự ý căn.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành nhiếp phục.
,4. Và thế nào gọi là đạo hành an tịnh?
,Ở đây, Tỷ-kheo không có chấp nhận dục tầm khởi lên, từ bỏ, tẩy sạch, làm cho an tịnh, chấm dứt, khiến đi đến không sanh hữu;
,không có chấp nhận sân tầm khởi lên ... không có chấp nhận hại tầm khởi lên ...
,không có chấp nhận các pháp ác bất thiện tầm khởi lên, từ bỏ, tẩy sạch, làm cho an tịnh, chấm dứt, khiến đi đến không sanh hữu.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành an tịnh.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn đạo hành này.

,(165)
Kham Nhẫn (2)
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn đạo hành này.
,Thế nào là bốn?
,Ðạo hành không kham nhẫn, đạo hành kham nhẫn, đạo hành nhiếp phục, đạo hành an tịnh.
,1. Và thế nào là đạo hành không kham nhẫn?
,Ở đây, có hạng người không kham nhẫn lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của ruồi muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát; không kham nhẫn những hình thức chưởi mắng, phỉ báng, không thể chịu đựng được cảm thọ về thân khởi lên, khổ đau, nhói đau, mãnh liệt, kịch liệt, không khả hỷ, không khả ý, chết điếng người.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành không kham nhẫn.
,2. Và thế nào là đạo hành kham nhẫn?
,Ở đây, có hạng người kham nhẫn lạnh, nóng ... chết điếng người.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành kham nhẫn.
,3. Và thế nào là đạo hành nhiếp phục?
,Ở đây, có hạng người khi mắt thấy sắc không nắm giữ tướng chung ...
,...(Như kinh 164-3)...
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành nhiếp phục.
,4. Và thế nào là đạo hành an tịnh?
,Ở đây, Tỷ-kheo không chấp nhận dục tầm khởi lên ...
,...(Như kinh 164-4)...
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành an tịnh.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn đạo hành này.

,(166)
Với Các Chi Tiết
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn đạo hành này.
,Thế nào là bốn?
,Ðạo hành khổ, thắng trí chậm; Ðạo hành khổ, thắng trí nhanh; Ðạo hành lạc, thắng trí chậm; Ðạo hành lạc, thắng trí nhanh.
,1. Ở đây, đạo hành này khổ, thắng trí chậm.
,Này các Tỷ-kheo, đạo hành này về cả hai phương diện gọi là hạ liệt. Vì đạo hành này là khổ, do duyên này, đạo hành được gọi là hạ liệt. Vì đạo hành này thắng trí chậm, do duyên này, đạo hành được gọi là hạ liệt.
,Này các Tỷ-kheo, đạo hành này về cả hai phương diện gọi là hạ liệt.
,2. Ở đây, đạo hành này là khổ, thắng trí nhanh.
,Này các Tỷ-kheo, đạo hành này do đau khổ nên gọi là hạ liệt.
,3. Ở đây, đạo hành này là lạc, thắng trí chậm. Này các Tỷ-kheo, đạo hành này do chậm nên gọi là hạ liệt.
,4. Tại đây, đạo hành này lạc, thắng trí nhanh.
,Này các Tỷ-kheo, đạo hành này cả hai phương diện, được gọi là thù thắng. Ðạo hành này lạc, do duyên này, đạo hành được gọi là thù thắng. Ðạo hành này nhanh chóng, do duyên này, đạo hành được gọi là thù thắng.
,Này các Tỷ-kheo, đạo hành này cả hai phương diện, được gọi là thù thắng.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn đạo hành này.

,(167)
Sàriputta và Moggallàna
,1. Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến Tôn giả Moggallàna, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Moggallàna những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả Moggallàna:
,- Này Hiền giả Moggallàna, có bốn đạo hành này.
,Thế nào là bốn?
,Ðạo hành khổ, thắng trí chậm; Ðạo hành khổ, thắng trí nhanh; Ðạo hành lạc, thắng trí chậm; Ðạo hành lạc, thắng trí nhanh.
,Này Hiền giả, có bốn đạo hành này.
,2. Trong bốn đạo hành này, này Hiền giả, đạo hành nào do đi đến đạo hành này, tâm của Hiền giả được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ?
,- Này Hiền giả Sàriputta, có bốn đạo hành này.
,Thế nào là bốn?
,Ðạo hành khổ, thắng trí chậm; Ðạo hành khổ, thắng trí nhanh; Ðạo hành lạc, thắng trí chậm; Ðạo hành lạc, thắng trí nhanh. Này Hiền giả, có bốn đạo hành này. Trong bốn đạo hành này, này Hiền giả, đạo hành này khổ, thắng trí nhanh. Do đi đến đạo hành này, tâm của tôi được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

,(168)
Moggallàna và Sàriputta
,1. Tôn giả Moggallàna đi đến Tôn giả Sàriputta ... Ngồi xuống một bên, Tôn giả Moggallàna nói với Tôn giả Sàriputta:
,- Này Hiền giả Sàriputta, có bốn đạo hành này.
,Thế nào là bốn?
,...(như trên)...
,Này Hiền giả, có bốn đạo hành này.
,2. Trong bốn đạo hành này, này Hiền giả, đạo hành nào do đi đến đạo hành này, tâm của Hiền giả được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ?
,- Này Hiền giả Moggallàna, có bốn đạo hành này.
,Thế nào là bốn?
,Ðạo hành khổ, thắng trí chậm; Ðạo hành khổ, thắng trí nhanh; Ðạo hành lạc, thắng trí chậm; Ðạo hành lạc, thắng trí nhanh.
,Này Hiền giả, trong bốn đạo hành này, đạo hành này lạc, thắng trí nhanh. Do đi đến đạo hành này, tâm của tôi được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

,(169)
Với Một Vài Nỗ Lực
,- Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời.
,Thế nào là bốn?
,Ở đây, có hạng người ngay trong hiện tại chứng được Hữu hành Niết-bàn. Ở đây, có hạng người khi thân hoại mạng chung, chứng được Hữu hành Niết-bàn. Ở đây, có hạng người ngay trong hiện tại chứng được Vô hành Niết-bàn. Ở đây, có hạng người khi thân hoại mạng chung, chứng được Vô hành Niết-bàn.
,1. Và thế nào là hạng người ngay trong hiện tại chứng được Hữu hành Niết-bàn?
,Ở đây, Tỷ-kheo sống quán bất tịnh trên thân, với tưởng nhàm chán đối với các món ăn, với tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, quán vô thường đối với tất cả hành, với tưởng chết, khéo an trú nội tâm. Vị ấy sống y cứ trên năm hữu học lực, tức là tín lực ... tuệ lực. Với vị ấy, năm căn này hiện khởi rất dồi dào, tức là tín căn ... tuệ căn. Vị ấy, do năm căn này hiện ra rất dồi dào, ngay trong hiện tại, chứng được Hữu hành Niết-bàn.
,2. Và thế nào là hạng người sau khi thân hoại mạng chung, chứng được Hữu hành Niết-bàn?
,Ở đây, Tỷ-kheo sống quán bất tịnh trên thân ... với tưởng chết, khéo an trú trên nội tâm. Vị ấy sống y cứ trên năm hữu học lực, tức là tín lực ... tuệ lực. Với vị ấy, năm căn này hiện khởi mềm yếu, tức là tín căn ... tuệ căn. Vị ấy, do năm căn này hiện ra mềm yếu, khi thân hoại mạng chung, vị ấy chứng được Hữu hành Niết-bàn.
,3. Và thế nào là hạng người ngay trong hiện tại chứng được Vô hành Niết-bàn?
,Ở đây, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện ...
,...chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy sống y cứ trên năm hữu học lực, tức là tín lực ... tuệ lực. Với vị ấy, năm căn này hiện khởi dồi dào, tức là tín căn ... tuệ căn. Do năm căn này dồi dào, vị ấy ngay trong hiện tại, chứng được Vô hành Niết-bàn.
,Như vậy, này các Tỷ kheo, có hạng người ngay trong hiện tại chứng được vô hành Niết Bàn.
,4. Và thế nào là hạng người sau khi thân hoại mạng chung, chứng được Vô hành Niết-bàn?
,Ở đây, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện ...
,...chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy sống y cứ trên năm hữu học lực, tức là tín lực ... tuệ lực. Với vị ấy, năm căn này khởi lên mềm yếu, tức là tín căn ... tuệ căn. Do năm căn này mềm yếu, vị ấy khi thân hoại mạng chung, chứng được Vô hành Niết-bàn.
,Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời.

,(170)
Gắn Liền Cột Chặt
,Một thời, Tôn giả Ananda sống ở Kosàmbi, tại khu vườn Ghosita. Tại đấy, Tôn giả Ananda gọi các Tỷ-kheo:
,- Thưa các Hiền giả Tỷ-kheo.
,- Thưa vâng, Hiền giả.
,Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả. Tôn giả Ananda nói như sau:
,- Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào tuyên bố trước mặt tôi rằng, đã chứng được quả A-la-hán, tất cả vị ấy được đầy đủ bốn chi phần này, hoặc là một trong bốn chi phần này.
,Thế nào là bốn?
,1. Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo tu tập quán, có chỉ đi trước; do vị ấy tu tập quán có chỉ đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
,2. Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo tu tập chỉ, có quán đi trước. Do vị ấy tu tập chỉ có quán đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
,3. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau. Do vị ấy tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
,4. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo với các dao động đối với các pháp được hoàn toàn dứt sạch. Này các Hiền giả, đây là thời khi tâm của vị ấy an trú, an tọa, nhất tâm, định tĩnh. Với vị ấy, con đường sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
,Này chư Hiền, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào tuyên bố trước mặt tôi rằng, đã chứng được quả A-la-hán, tất cả vị ấy được đầy đủ bốn chi phần này, hoặc là một trong bốn chi phần này.
...

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Trangphattu Yếu lược & Bố cục

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

PHẦN DẪN GIẢI-CHÚ THÍCH-BÌNH LUẬN

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.