[Các Liên Kết]

MỤC LỤC: KINH TẠNG

MƯỜI PHÁP—[Phẩm XI-XVI]

Tăng Chi Bộ Kinh
(Anguttara Nikaya)
Tập 4

Chương
MƯỜI PHÁP
[Phẩm XI-XVI—Kinh số 101-166]

———————————————————————————————
PHẨM XI
(Kinh số 101-112)

,(101)
Sa-Môn Tưởng
,1. Có ba Sa-môn tưởng, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho đầy đủ bảy pháp.
,Thế nào là ba?
,2. Ta nay đã đến tình trạng mất bản sắc; đời sống ta bị phụ thuộc vào người khác; hành vi của ta cần phải thay đổi.
,Ba Sa-môn tưởng này, được tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho đầy đủ bảy pháp.
,Thế nào là bảy?
,3. Luôn luôn là người làm liên tục, thực hiện liên tục trong các Giới Luật; không có tham ái; không có sân; không có quá mạn, ưa thích học tập; đối với các vật dụng cần yếu cho đời sống, nó nghĩ:
,- "Ðây là mục đích sống tinh cần tinh tấn".
,Này các Tỷ-kheo, có ba Sa-môn tưởng này tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho đầy đủ bảy pháp.

,(102)
Giác Chi
,1. Bảy giác chi này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho đầy đủ ba minh.
,Thế nào là bảy?
,2. Niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi.
,Bảy giác chi này, được tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho đầy đủ ba minh.
,Thế nào là ba?
,3. Ở đây, Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời... nhớ đến nhiều đời trước với các nét đại cương và các chi tiết.
,Với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân... rõ biết các chúng sanh, tùy thuộc hạnh nghiệp của họ.
,Do đoạn diệt các lậu hoặc... sau khi chứng ngộ, chứng đạt, vị ấy an trú.
,Bảy giác chi này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho đầy đủ ba minh này.

,(103)
Tà Tánh
,1. Do tà tánh, nên thất bại, không thành công.
,Và này các Tỷ-kheo, thế nào là do tà tánh, nên thất bại, không thành công?
,Với người tà kiến, có tà tư duy. Với người tà tư duy, có tà ngữ. Với người tà ngữ, có tà nghiệp. Với người tà nghiệp, có tà mạng. Với người tà mạng, có tà tinh tấn. Với người tà tinh tấn, có tà niệm. Với người tà niệm, có tà định. Với người tà định, có tà trí. Với người tà trí, có tà giải thoát.

,Như vậy, do tà tánh đưa đến thất bại.
,2. Do chánh tánh, nên thành công, không thất bại.
,Và này các Tỷ-kheo, thế nào là do chánh tánh nên thành công, không thất bại?
,Với người chánh kiến, có chánh tư duy. Với người chánh tư duy, có chánh ngữ. Với người chánh ngữ, có chánh nghiệp. Với người chánh nghiệp, có chánh mạng. Với người chánh mạng, có chánh tinh tấn. Với người chánh tinh tấn, có chánh niệm. Với người chánh niệm, có chánh định. Với người chánh định, có chánh trí. Với người chánh trí, có chánh giải thoát.

,Như vậy, do chánh tánh đưa đến thành công, không đưa đến thất bại.

,(104)
Chủng Tử
,1. Này các Tỷ-kheo, với người đàn ông, với con người có tà kiến, có tà tư duy, có tà ngữ, có tà nghiệp, có tà mạng, có tà tinh tấn, có tà niệm, có tà định, có tà trí, có tà giải thoát; phàm có thân nghiệp gì được thực hiện đầy đủ, được chấp nhận theo kiến ấy; phàm có khẩu nghiệp gì... phàm có ý nghiệp gì được thực hiện đầy đủ, được chấp nhận theo kiến ấy; phàm có tư tâm sở nào, phàm có quyết định nào, phàm có ước nguyện nào và phàm có các hành nào, tất cả các pháp ấy đưa đến bất khả lạc, bất khả hỷ, bất khả ý, bất hạnh, đau khổ.
,Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì kiến là ác.
,Ví như, hột giống cây nimba, hay hột giống cây kosàtakì (một loại dây leo), hay hột giống cây mướp đắng được gieo vào đất ướt. Phàm vị gì nó lấy lên từ đất, phàm vị gì nó lấy lên từ nước, tất cả vị ấy đều đưa đến tánh đắng, tánh cay, tánh không lạc của nó.
,Vì sao? Vì nó là tánh ác của hột giống,
,Cũng vậy, với người đàn ông, với con người có tà kiến, có tà tư duy, có tà ngữ, có tà nghiệp, có tà mạng, có tà tinh tấn, có tà niệm, có tà định, có tà trí, có tà giải thoát, phàm có thân nghiệp gì được thực hiện đầy đủ, được chấp nhận theo kiến ấy, phàm có khẩu nghiệp gì... phàm có ý nghiệp gì được thực hiện đầy đủ, và được chấp nhận theo kiến ấy; phàm có tư tâm sở nào, phàm có quyết định nào, phàm có ước nguyện nào, phàm có các hành nào, tất cả các pháp ấy đưa đến bất khả lạc, bất khả hỷ, bất khả ý, bất hạnh, đau khổ.
,Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì tà kiến là ác.
,2. Này các Tỷ-kheo, với người đàn ông, với con người có chánh kiến, có chánh tư duy, có chánh ngữ, có chánh nghiệp, có chánh mạng, có chánh tinh tấn, có chánh niệm, có chánh định, có chánh trí, có chánh giải thoát; phàm có thân nghiệp gì được thực hiện đầy đủ, được chấp nhận theo kiến ấy; phàm có khẩu nghiệp gì... phàm có ý nghiệp gì được thực hiện đầy đủ, được chấp nhận theo kiến ấy; phàm có tư tâm sở nào, phàm có quyết định nào, phàm có ước nguyện nào, và phàm có các hành nào, tất cả các pháp ấy đưa đến khả năng lạc, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.
,Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì chánh kiến là hiền thiện.
,Ví như, hột giống cây mía, hay hột giống cây lúa, hay hột giống cây nho được gieo vào đất ướt. Phàm vị gì nó lấy lên từ đất, phàm vị gì nó lấy lên từ nước, tất cả vị ấy đều đưa đến tánh ngon, tánh ngọt, tánh thuần chất của nó.
,Vì sao? Vì hột giống là hiền thiện.
,Cũng vậy, đối với người có chánh kiến, phàm mọi thân hành... vì tánh hiền thiện của kiến.

,(105)
Vô Minh
,1. Khi nào vô minh dẫn đầu, này các Tỷ-kheo, đưa đến sự thành tựu các pháp bất thiện, thời vô tàm, vô quý nối tiếp theo. Với kẻ bị vô minh chi phối, vô trí, tà kiến sanh. Với kẻ có tà kiến, tà tư duy sanh. Với kẻ tà tư duy, tà ngữ sanh. Với kẻ tà ngữ, tà nghiệp sanh. Với kẻ tà nghiệp, tà mạng sanh. Với kẻ tà mạng, tà tinh tấn sanh. Với kẻ tà tinh tấn, tà niệm sanh. Với kẻ tà niệm, tà định sanh. Với kẻ tà định, tà trí sanh. Với kẻ tà trí, tà giải thoát sanh.
,2. Khi nào minh dẫn đầu, này các Tỷ-kheo, đưa đến sự thành tựu các thiện pháp, thời tàm và quý nối tiếp theo. Với kẻ được minh chi phối, có trí, chánh kiến sanh. Với vị có chánh kiến, chánh tư duy sanh. Với vị có chánh tư duy, chánh ngữ sanh. Với vị có chánh ngữ, chánh nghiệp sanh. Với vị có chánh nghiệp, chánh mạng sanh. Với vị có chánh mạng, chánh tinh tấn sanh. Với vị có chánh tinh tấn, chánh niệm sanh. Với vị có chánh niệm, chánh định sanh. Với vị có chánh định, chánh trí sanh. Với vị có chánh trí, chánh giải thoát sanh.

,(106)
Nguyên Nhân Khiến Cho Tổn Giảm
,Này các Tỷ-kheo, có mười tổn giảm sự này.
,Thế nào là mười?
,Với người có chánh tri kiến, tà kiến bị tổn giảm, các pháp ác, bất thiện do duyên tà kiến sanh, các pháp ấy bị tổn giảm. Các pháp thiện do duyên chánh kiến sanh, các pháp ấy đi đến viên mãn trong tu tập.
,Với người có chánh tư duy, tà tư duy bị tổn giảm, và các pháp ác, bất thiện do duyên tà tư duy sanh, các pháp ấy bị tổn giảm. Các pháp thiện do duyên chánh tư duy sanh, các pháp ấy được viên mãn trong tu tập.
,Với người có chánh ngữ... có chánh nghiệp... có chánh mạng... có chánh tinh tấn... có chánh niệm... có chánh định... có chánh trí...
,Với người có chánh giải thoát, tà giải thoát bị tổn giảm, và các pháp ác, bất thiện do duyên tà giải thoát sanh, các pháp ấy bị tổn giảm. Do duyên chánh giải thoát, các thiện pháp đi đến viên mãn trong tu tập.
,Này các Tỷ-kheo, có mười tổn giảm sự này.

,(107)
Tẩy Trần
,1. Này các Tỷ-kheo, tại các quốc độ miền Nam, có lễ tẩy trần. Tại đấy có các món ăn, có các thức uống, các đồ ăn loại cứng, các đồ ăn loại mềm, đồ nếm, đồ uống, múa, hát, nhạc.
,Này các Tỷ-kheo, đây là lễ tẩy trần, Ta tuyên bố rằng không phải là không có. Và lễ tẩy trần ấy là hạ liệt, thô tục, phàm phu, không phải Thánh, không liên hệ đến mục đích, không đưa đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn.
,Này các Tỷ kheo. Ta sẽ thuyết về tẩy trần thuộc bậc Thánh, tẩy trần này đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn. Do duyên tẩy trần này, các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh; các chúng sanh bị già được giải thoát khỏi già; cách chúng sanh bị chết được giải thoát khỏi chết; các chúng sanh bị sầu, bi khổ, ưu, não được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
,- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
,Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
,2. Và thế nào là Thánh tẩy trần, do Thánh tẩy trần này đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? Do duyên Thánh tẩy trần này, các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh; những chúng sanh bị già được giải thoát khỏi già; các chúng sanh bị chết được giải thoát khỏi chết; các chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não.
,3. Với người có chánh kiến, tà kiến bị tẩy sạch, và những pháp ác bất thiện nào do duyên tà kiến khởi lên, các pháp ấy của người ấy được tẩy sạch. Và các pháp thiện do duyên chánh kiến, đi đến viên mãn trong tu tập.
,Với người chánh tư duy, tà tư duy bị tẩy sạch... Với người chánh ngữ, tà ngữ được tẩy sạch... Với người chánh nghiệp, tà nghiệp được tẩy sạch... Với người chánh mạng, tà mạng được tẩy sạch... Với người chánh tinh tấn, tà tinh tấn được tẩy sạch... Với người chánh niệm, tà niệm được tẩy sạch... Với người chánh định, tà định được tẩy sạch... Với người chánh trí, tà trí được tẩy sạch...
,Với người chánh giải thoát, tà giải thoát được tẩy sạch và những pháp ác bất thiện do duyên tà giải thoát khởi lên, các pháp ấy của người ấy được tẩy sạch. Và các pháp thiện do duyên chánh giải thoát, đi đến viên mãn trong tu tập.
,4. Này các Tỷ-kheo, đây là Thánh tẩy trần ấy, tẩy trần này đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Do duyên tẩy trần này nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh; những chúng sanh bị già được giải thoát khỏi già, những chúng sanh bị chết được giải thoát khỏi chết; những chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não.

,(108)
Y Thuật
,1. Các y sư, cho thuốc xổ để chận đứng các bệnh khởi lên từ mật, để chận đứng các bệnh khởi lên từ đàm, để chận đứng các bệnh khởi lên từ gió. Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là thuốc xổ. Ta tuyên bố rằng đây không phải là không có, và thuốc xổ này có thành công và cũng có thất bại.
,Và Ta sẽ thuyết về thuốc xổ các bậc Thánh, thuốc xổ này thành công, không có thất bại. Do nhân thuốc xổ này nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh; các chúng sanh bị già được giải thoát khỏi già, các chúng sanh bị chết được giải thoát khỏi chết; các chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
,- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
,Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
,2. Này các Tỷ-kheo, thế nào là thuốc xổ bậc Thánh, thuốc xổ này thành công, không có thất bại. Do duyên thuốc xổ bậc Thánh này nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh... các chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não?
,3. Với người có chánh kiến, tà kiến bị xổ ra. Các ác bất thiện pháp do duyên tà kiến sanh khởi nên các pháp ấy được xổ ra và các pháp thiện do duyên với chánh kiến đi đến viên mãn trong tu tập.
,Với người có chánh tư duy, tà tư duy bị xổ ra... Với người có chánh ngữ, tà ngữ bị xổ ra... Với người có chánh nghiệp, tà nghiệp bị xổ ra... Với người có chánh mạng, tà mạng bị xổ ra... Với người có chánh tinh tấn, tà tinh tấn bị xổ ra... Với người có chánh niệm, tà niệm bị xổ ra... Với người có chánh định, tà định bị xổ ra... Với người có chánh trí, tà trí bị xổ ra...
,Với người có chánh giải thoát, tà giải thoát bị xổ ra... Các pháp ác bất thiện, do duyên tà giải thoát sanh khởi, các pháp ấy bị xổ ra và các pháp thiện, duyên với chánh giải thoát đi đến viên mãn trong tu tập.
,4. Này các Tỷ-kheo, đây là thuốc xổ bậc Thánh, thuốc xổ này chỉ thành công, không thất bại. Do nhân thuốc xổ này nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh; các chúng sanh bị già được giải thoát khỏi già, các chúng sanh bị chết được giải thoát khỏi chết; các chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não.

,(109)
Mửa
,(Giống như kinh 108, kinh trước dùng chữ "xổ", kinh này dùng chữ "mửa").

,(110)
Bài Tiết
,1. Có mười pháp này, cần phải bài tiết.
,Thế nào là mười?
,2. Với người có chánh kiến, tà kiến bị bài tiết ra, ...
,(giống như hai kinh trước, chỉ chữ "bài tiết" thay cho chữ "xổ").

,(111)
Vô Học (1)
,1. Bấy giờ có một Tỷ-kheo đi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
,- Vô học, vô học, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo là bậc vô học?
,2. Ở đây, Tỷ-kheo thành tựu vô học chánh tri kiến, thành tựu vô học chánh tư duy, thành tựu vô học chánh ngữ, thành tựu vô học chánh nghiệp, thành tựu vô học chánh mạng, thành tựu vô học chánh tinh tấn, thành tựu vô học chánh niệm, thành tựu vô học chánh định, thành tựu vô học chánh trí, thành tựu vô học chánh giải thoát.
,Như vậy, là Tỷ-kheo vô học.

,(112)
Vô Học (2)
,1. Này các Tỷ-kheo, có mười pháp vô học này.
,Thế nào là mười?
,2. Vô học chánh kiến, vô học chánh tư duy, vô học chánh ngữ, vô học chánh nghiệp, vô học chánh mạng, vô học chánh tinh tấn, vô học chánh niệm, vô học chánh định, vô học.chánh trí, vô học chánh giải thoát.
,Này các Tỷ-kheo, có mười pháp vô học này.

PHẨM XII
(Kinh số 113-122)

,(113)
Phi Pháp (1)
,1. Phi pháp và phi mục đích này, cần phải hiểu biết; pháp và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và phi mục đích, sau khi biết pháp và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy, cần phải thực hành.
,Này các Tỷ-kheo, thế nào là phi pháp và phi mục đích?
,Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tà trí, tà giải thoát.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là phi pháp và phi mục đích.
,2. Và thế nào là pháp và mục đích?
,Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh trí, chánh giải thoát.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là pháp và mục đích.
,Và phi pháp và phi mục đích cần phải hiểu biết; pháp và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi hiểu biết phi pháp và phi mục đích sau khi hiểu biết pháp và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy, cần phải thực hành.
,Ðược nói đến như vậy là do duyên này được nói đến.

,(114)
Không Phải Mục Ðích
,Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết, phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành.
,Và thế nào là phi pháp? Thế nào là pháp, thế nào là phi mục đích và thế nào là mục đích?
,1. Tà kiến, là phi pháp; chánh kiến là pháp. Những pháp ác bất thiện nào do duyên tà kiến được sanh, đây là phi mục đích. Những pháp thiện do duyên chánh kiến đi đến đầy đủ trong tu tập, đây là mục đích.
,2. Tà tư duy, là phi pháp; chánh tư duy là pháp. Những pháp ác bất thiện nào do duyên tà tư duy được sanh, đây là phi mục đích. Những pháp thiện do duyên chánh tư duy đi đến đầy đủ trong tu tập, đây là mục đích.
,3. Tà ngữ, là phi pháp; chánh ngữ là pháp. Những pháp ác bất thiện nào do duyên tà ngữ sanh khởi, đây là phi mục đích. Những pháp thiện do duyên chánh ngữ đi đến đầy đủ trong tu tập, đây là mục đích.
,4. Tà nghiệp, là phi pháp; chánh nghiệp là pháp. Những pháp ác bất thiện nào do duyên tà nghiệp được sanh, đây là phi mục đích. Những pháp thiện do duyên chánh nghiệp đi đến đầy đủ trong tu tập, đây là mục đích.
,5. Tà mạng, là phi pháp; chánh mạng là pháp. Những pháp ác bất thiện nào do duyên tà mạng sanh khởi, đây là phi mục đích. Những pháp thiện do duyên chánh mạng đi đến đầy đủ trong tu tập, đây là mục đích.
,6. Tà tinh tấn, là phi pháp; chánh tinh tấn là pháp. Những pháp ác bất thiện nào do duyên tà tinh tấn sanh khởi, đây là phi mục đích. Những pháp thiện do duyên chánh tinh tấn đi đến đầy đủ trong tu tập, đây là mục đích.
,7. Tà niệm, là phi pháp; chánh niệm là pháp. Những pháp ác bất thiện nào do duyên tà niệm sanh khởi, đây là phi mục đích. Những pháp thiện do duyên chánh niệm đi đến đầy đủ trong tu tập, đây là mục đích.
,8. Tà định, là phi pháp; chánh định là pháp. Những pháp ác bất thiện nào do duyên tà định sanh khởi, đây là phi mục đích. Những pháp thiện do duyên chánh định đi đến đầy đủ trong tu tập, đây là mục đích.
,9. Tà trí, là phi pháp; chánh trí là pháp. Những pháp ác bất thiện nào do duyên tà trí sanh khởi, đây là phi mục đích. Những pháp thiện do duyên chánh trí đi đến đầy đủ trong tu tập, đây là mục đích.
,Tà giải thoát, là phi pháp; chánh giải thoát là pháp. Những pháp ác bất thiện nào do duyên tà giải thoát sanh khởi, đây là phi mục đích. Và những thiện pháp do duyên chánh giải thoát đi đến đầy đủ trong tu tập, đây là mục đích.
,Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết; phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành. Ðược nói như vậy, do duyên này được nói đến như vậy.

,(115)
Phi Pháp (2)
[1]
,1. Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết; phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành. Thế Tôn thuyết như vậy.
,Thuyết như vậy xong, bậc Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy và bước vào tịnh xá.
,2. Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, suy nghĩ như sau: Này chư Hiền, Thế Tôn đã nói lên một cách vắn tắt lời tuyên bố này, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tịnh xá:
,- "Phi pháp và pháp, cần phải hiểu biết, phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành".
,Với lời tuyên bố này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, ai là người có thể phân tích một cách rộng rãi?
,Rồi các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ như sau:
,- "Tôn giả Ananda được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh có trí bắt chước. Tôn giả Ananda, với lời tuyên bố này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, có thể phân tích một cách rộng rãi. Vậy chúng ta hãy đi đến hỏi Tôn giả Ananda về ý nghĩa này. Tôn giả Ananda trả lời cho chúng ta như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì".
,3. Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Tôn giả Ananda, sau khi đến nói lên với Tôn giả Ananda những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy nói với Tôn giả Ananda như vậy.
,Thưa Tôn giả Ananda, hãy phân tích cho ý nghĩa này.
,4. Chư Hiền, cũng ví như một người cần thiết lõi cây, tìm lõi cây, đi khắp mọi nơi tìm lõi cây, đến một cây to lớn, đứng thẳng và có lõi cây. Người này bỏ qua rễ, bỏ qua thân cây, nghĩ rằng:
,- "Phải tìm lõi cây ở nơi cành lá".
,Cũng vậy, là hành động của chư Tôn giả, đứng trước mặt Thế Tôn, quí vị bỏ qua Thế Tôn, nghĩ rằng:
,- "Cần phải hỏi tôi về ý nghĩa này".
,Chư Hiền, Thế Tôn biết những gì cần phải biết, thấy những gì cần phải thấy. Ngài đã trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí, trở thành Chánh pháp, trở thành Phạm thiên, vị thuyết giả, vị diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị Pháp chủ. Thế Tôn giải thích quý vị như thế nào, quí vị hãy như vậy thọ trì.
,5. Hiền giả Ananda, chắc chắn Thế Tôn biết những gì cần phải biết, thấy những gì cần phải thấy. Ngài đã trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí, trở thành Chánh pháp, trở thành Phạm thiên, vị thuyết giả, vị diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị Pháp chủ, Như Lai. Chúng tôi phải tùy thời hỏi Thế Tôn ý nghĩa này. Những gì Thế Tôn giải thích cho chúng tôi, chúng tôi sẽ như vậy thọ trì.
,Nhưng Hiền giả Ananda được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh có trí bắt chước. Hiền giả Ananda có thể giải thích rộng rãi ý nghĩa lời giảng dạy được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt mà không có phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi. Mong Hiền giả Ananda giải thích, nếu không có sự gì phiền muộn.
,6. Vậy chư Hiền, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, tôi sẽ giảng.
,- Thưa vâng Hiền giả.
,Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ananda. Tôn giả Ananda giảng như sau:
,- Thưa chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói lên lời tuyên bố một cách vắn tắt mà không có phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, đã từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tịnh xá:
,- "Phi pháp và pháp, cần phải hiểu biết, phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành".
[2]
,Và này chư Hiền, thế nào là phi pháp, thế nào là pháp, thế nào là phi mục đích và thế nào là mục đích?
,1. Tà kiến, là phi pháp; chánh kiến là pháp, những pháp ác bất thiện gì do duyên tà kiến khởi lên, đây là phi mục đích. Và những pháp thiện gì đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
,2-9.
,Tà tư duy, là phi pháp; chánh tư duy là pháp... Tà ngữ là phi pháp; chánh ngữ là pháp... Tà nghiệp là phi pháp; chánh nghiệp là pháp... Tà mạng là phi pháp; chánh mạng là pháp... Tà tinh tấn là phi pháp; chánh tinh tấn là pháp... Tà niệm là phi pháp; chánh niệm là pháp... Tà định là phi pháp; chánh định là pháp... Tà trí là phi pháp; chánh trí là pháp...
,10. Tà giải thoát là phi pháp; chánh giải thoát là pháp. Và những pháp ác bất thiện nào do duyên chánh giải thoát khởi lên đây là phi mục đích, và những thiện pháp do duyên chánh giải thoát đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
,Thưa các Hiền giả, Thế Tôn sau khi nói lên lời tuyên bố này một cách vắn tắt mà không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tịnh xá:
,- "Phi pháp và pháp, cần phải hiểu biết, phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành".
,Thưa các Hiền giả, lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn mà không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, tôi hiểu ý nghĩa rộng rãi như vậy, nếu chư Hiền muốn, hãy đi đến Thế Tôn và hỏi ý nghĩa này. Thế Tôn trả lời như thế nào, hãy như vậy thọ trì.
,- Thưa vâng, Hiền giả.
[3]
,1. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Ananda, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn về sự kiện ấy.
,- Bạch Thế Tôn, ý nghĩa của câu nói ấy được Tôn giả Ananda khéo phân tích với những lý do như thế này, với những chữ như thế này, với những chữ như thế này, với những câu văn như thế này.
,2. Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo, Hiền trí là Hiền giả Ananda! Ðại tuệ là Hiền giả Ananda! Này các Tỷ-kheo, nếu các Thầy đến hỏi Ta về ý nghĩa này, Ta cũng trả lời như vậy, như đã được Ananda trả lời. Ðây là ý nghĩa của lời ấy, hãy như vậy thọ trì.

,(116)
Ajita
[1]
,1. Bấy giờ có du sĩ Ajita đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên, du sĩ Ajita nói với Thế Tôn:
,- Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi có người đồng Phạm hạnh là vị Hiền trí, vị này có nghĩ đến năm trăm tâm xứ. Với những tâm xứ ấy, các người ngoại đạo khi bị cật nạn, biết rằng:
,- "Chúng tôi đang bị cật nạn".
,Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
,- Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thọ trì những căn bản địa của bậc Hiền trí không?
,- Bạch Thế Tôn, nay đến thời, bạch Thiện Thệ, nay đến thời Thế Tôn thuyết. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
,- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
,- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
,Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
,2. Ở đây, có người với lời phi pháp, bài xích, công kích lời phi pháp. Với lời ấy, vị ấy kích thích một hội chúng phi pháp đến la cao tiếng, lớn tiếng rằng:
,- "Vị Tôn giả thật là một Hiền trí! Vị Tôn giả thật là một Hiền trí!".
,3. Nhưng ở đây, có người với lời phi pháp bài xích, công kích lời đúng pháp. Với lời ấy, vị ấy kích thích một hội chúng phi pháp đến la cao tiếng, lớn tiếng rằng:
,- "Vị Tôn giả thật là một Hiền trí! Vị Tôn giả thật là một Hiền trí!".
,4. Nhưng ở đây, có người với lời phi pháp bài xích, công kích lời đúng pháp và lời phi pháp. Với lời ấy, vị ấy kích thích một hội chúng phi pháp đến la cao tiếng, lớn tiếng rằng:
,- "Vị Tôn giả thật là một Hiền trí! Vị Tôn giả thật là một Hiền trí!".
,5. Nhưng ở đây, có người với lời đúng pháp bài xích, công kích lời phi pháp. Với lời ấy, vị ấy kích thích một hội chúng phi pháp đến la cao tiếng, lớn tiếng rằng:
,- "Vị Tôn giả thật là một Hiền trí! Vị Tôn giả thật là một Hiền trí!".
,6. Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết; phi mục đích và mục đích, cần phải hiểu biết; phi mục đích và mục đích, cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy, cần phải thực hành.
[2]
,Và thế nào là phi pháp, thế nào là pháp, thế nào là phi mục đích, thế nào là mục đích?
,1. Tà kiến, là phi pháp, chánh kiến là pháp, do duyên tà kiến, các pháp ác bất thiện nào khởi lên, đây là phi mục đích; do duyên chánh kiến, các pháp thiện đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
,2. Tà tư duy, là phi pháp, chánh tư duy là pháp...
,3. Tà ngữ, là phi pháp, chánh ngữ là pháp...
,4. Tà nghiệp, là phi pháp, chánh nghiệp là pháp...
,5. Tà mạng, là phi pháp, chánh mạng là pháp...
,6. Tà tinh tấn, là phi pháp, chánh tinh tấn là pháp...
,7. Tà niệm, là phi pháp, chánh niệm là pháp...
,8. Tà định, là phi pháp, chánh định là pháp...
,9. Tà trí, là phi pháp, chánh trí là pháp...
,10. Tà giải thoát, là phi pháp, chánh giải thoát là pháp. Do duyên tà giải thoát, các pháp ác bất thiện nào khởi lên, đây là phi mục đích. Do duyên chánh giải thoát, các pháp thiện đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
,Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết. Phi mục đích và mục đích, cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy, cần phải thực hành. Ðược nói đến như vậy, do duyên này được nói đến như vậy.

,(117)
Sangàrava
,Bấy giờ có Bà-la-môn Sangàrava đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Bà-la-môn Sangàrava bạch Thế Tôn:
,- Thưa Tôn giả Gotama, thế nào là bờ bên này? Thế nào là bờ bên kia?
,Tà kiến, này Bà-la-môn, là bờ bên này, chánh kiến là bờ bên kia.
,Tà tư duy là bờ bên này, chánh tư duy là bờ bên kia. Tà ngữ... chánh ngữ... Tà nghiệp... chánh nghiệp... Tà mạng... chánh mạng... Tà tinh tấn... chánh tinh tấn... Tà niệm... chánh niệm... Tà định... chánh định... Tà trí... chánh trí...
,Tà giải thoát, này Bà-la-môn, là bờ bên này, chánh giải thoát là bờ bên kia.
,Này Bà-la-môn, đây là bờ bên này, đây là bờ bên kia:
,Ít người giữa nhân loại,
,Ðến được bờ bên kia,
,Còn số người còn lại,
,Xuôi ngược chạy bờ này.
,Những ai hành trì pháp,
,Theo Chánh pháp khéo dạy,
,Sẽ đến bờ bên kia,
,Vượt ma giới khó thoát.
,Kẻ trí bỏ pháp đen,
,Tu tập theo pháp trắng,
,Bỏ nhà, sống không nhà,
,Sống viễn ly khổ lạc.
,Hãy cầu vui Niết-bàn,
,Bỏ dục, không chướng ngại,
,Kẻ trí tự rửa sạch,
,Cấu uế từ nội tâm.
,Những ai với chánh tâm,
,Khéo tu tập giác chi,
,Từ bỏ mọi ái nhiễm
,Hoan hỷ không chấp thủ,
,Không lậu hoặc, sáng chói,
,Sống tịch tịnh ở đời.

,(118)
Bờ Bên Này Và Bờ Bên Kia
,- Và này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bờ bên này và bờ bên kia. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
,- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
,Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
,2. Này các Tỷ-kheo, thế nào là bờ bên này, và thế nào là bờ bên kia?
,Tà kiến, là bờ bên này, chánh kiến là bờ bên kia...
,...(như trên)...
,Tà giải thoát là bờ bên này, chánh giải thoát là bờ bên kia.
,Này các Tỷ-kheo, đây là bờ bên này, đây là bờ bên kia.
,Ít người giữa nhân loại,
,Ðến được bờ bên kia,
,Còn số người còn lại,
,Xuôi ngược chạy bờ này.
,Những ai hành trì pháp,
,Theo Chánh pháp khéo dạy,
,Sẽ đến bờ bên kia,
,Vượt ma giới khó thoát.
,Kẻ trí bỏ pháp đen,
,Tu tập theo pháp trắng,
,Bỏ nhà, sống không nhà,
,Sống viễn ly khổ lạc.
,Hãy cầu vui Niết-bàn,
,Bỏ dục, không chướng ngại,
,Kẻ trí tự rửa sạch,
,Cấu uế từ nội tâm.
,Những ai với chánh tâm,
,Khéo tu tập giác chi,
,Từ bỏ mọi ái nhiễm
,Hoan hỷ không chấp thủ,
,Không lậu hoặc, sáng chói,
,Sống tịch tịnh ở đời.

,(119)
Sự Xuất Ly của Bậc Thánh (1)
,1. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Jànussoni, nhân ngày trai giới Uposatha, sau khi gội đầu và mặc đôi áo lụa mới, tay cầm nắm cỏ kusa ướt, đứng không xa Thế Tôn bao nhiêu. Thế Tôn thấy vậy liền nói với Bà-la-môn Jànussoni:
,- Này Bà-la-môn, nhân ngày trai giới Uposatha, Ông gội đầu, mặc đôi áo lụa mới, tay cầm nắm cỏ kusa ướt, đứng một bên để làm gì? Có phải hôm nay là ngày của gia đình Bà-la-môn?
,- Thưa Tôn giả Gotama, hôm nay là ngày xuất ly của gia đình Bà-la-môn.
,- Này Bà-la-môn, như thế nào là ngày xuất ly của các Bà-la-môn?
,- Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn nhân ngày trai giới Uposatha gội đầu, mặc đôi áo lụa mới, thoa sàn nhà với phân bò ướt, trải với cỏ kusa xanh, và nằm xuống giữa đống cát và nhà lửa. Ðêm ấy họ dậy ba lần, chắp tay đảnh lễ ngọn lửa và nói:
,- "Chúng tôi đi xuống đến Tôn giả".
,Rồi họ đốt lửa với nhiều thục tô, và sanh tô, và sau khi đêm ấy đã qua, họ cúng dường các Bà-la-môn với các món ăn thù diệu, loại cứng và loại mềm.
,Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, là lễ đi xuống của các Bà-la-môn.
,- Sai khác, này Bà-la-môn, là lễ đi xuống của các Bà-la-môn. Sai khác là sự xuất ly trong Luật bậc Thánh.
,- Như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, là sự xuất ly trong Luật bậc Thánh? Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho chúng tôi thế nào là trong Luật của bậc Thánh!
,- Này Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
,- Thưa vâng, Tôn giả.
,Bà-la-môn Jànussoni vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
,2. Ở đây, này Bà-la-môn, vị Thánh đệ tử suy xét như sau:
,- "Tà kiến đưa đến ác quả dị thục ngay trong hiện tại và trong tương lai".
,Sau khi suy xét như vậy, vị ấy từ bỏ tà kiến, ra khỏi tà kiến...
,Tà tư duy đưa đến ác quả dị thục ngay trong hiện tại và trong tương lai... Tà ngữ đưa đến ác quả dị thục ngay trong hiện tại và trong tương lai... Tà nghiệp đưa đến ác quả dị thục ngay trong hiện tại và trong tương lai... Tà mạng đưa đến ác quả dị thục ngay trong hiện tại và trong tương lai... Tà tinh tấn đưa đến ác quả dị thục ngay trong hiện tại và trong tương lai... Tà niệm... Tà định... Tà trí...
,Tà giải thoát đưa đến ác quả dị thục ngay trong hiện tại và trong tương lai".
,Sau khi suy xét như vậy, vị ấy từ bỏ tà giải thoát, ra khỏi tà giải thoát.
,Như vậy, này Bà-la-môn, là sự xuất ly trong Luật của bậc Thánh.
,3. Sai khác, thưa Tôn giả Gotama, là lễ đi xuống của các Bà-la-môn. Sai khác là sự xuất ly trong Luật của bậc Thánh. Thưa Tôn giả Gotama, sự xuất ly của các Bà-la-môn không bằng giá trị của phần mười sáu, so với sự xuất ly trong Luật bậc Thánh.
,Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! ... Mong Tôn giả Gotama bắt đầu từ nay nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung con xin quy ngưỡng.

,(120)
Sự Xuất Ly Của Bậc Thánh (2)
,1. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Thầy về sự xuất ly của bậc Thánh. Hãy nghe...
,Và thế nào là sự xuất ly của bậc Thánh?
,2. Ở đây, vị Thánh đệ tử suy xét như sau:
,- 'Tà kiến đưa đến ác quả dị thục trong hiện tại và trong tương lai".
,Sau khi suy xét như vậy, vị ấy từ bỏ tà kiến, ra khỏi tà kiến...
,Tà tư duy... Tà ngữ... Tà nghiệp... Tà mạng... Tà tinh tấn... Tà niệm... Tà định... Tà trí...
,Tà giải thoát, đưa đến ác quả dị thục trong đời này và trong tương lai".
,Sau khi suy xét như vậy, vị ấy từ bỏ tà giải thoát, ra khỏi tà giải thoát.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sự xuất ly của bậc Thánh.

,(121)
Ðiềm Báo Trước
,1. Khi mặt trời mọc, cái này là đi trước, cái này là tướng báo trước, tức là rạng đông. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với các thiện pháp, cái này là đi trước, cái này là tướng trước, tức là chánh tri kiến.
,2. Từ chánh tri kiến, có chánh tư duy. Từ chánh tư duy, có chánh ngữ. Từ chánh ngữ, có chánh nghiệp. Từ chánh nghiệp, có chánh mạng. Từ chánh mạng, có chánh tinh tấn. Từ chánh tinh tấn, có chánh niệm. Từ chánh niệm, có chánh định. Từ chánh định, có chánh trí. Từ chánh trí, có chánh giải thoát.

,(122)
Các Lậu Hoặc
,1. Có mười pháp này, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến các lậu hoặc được đoạn diệt.
,Thế nào là mười?
,2. Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh trí, chánh giải thoát.
,Mười pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến các lậu hoặc được đoạn diệt.

PHẨM XIII
(Kinh số 123-133)

,(123)
Các Pháp Thanh Tịnh
,1. Mười pháp này, thanh tịnh, trong sáng, chỉ có trong Luật của bậc Thiện Thệ.
,Thế nào là mười?
,2. Chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh trí, chánh giải thoát.
,Mười pháp này, thanh tịnh, trong sáng, chỉ có trong Luật của bậc Thiện Thệ.

,(124)
Pháp Chưa Khởi
,1. Mười pháp này, chưa khởi, chỉ khởi lên trong Luật của bậc Thiện Thệ.
,Thế nào là mười?
,2. Chánh tri kiến... chánh giải thoát.
,Mười pháp này, chưa khởi, chỉ khởi lên trong Luật của bậc Thiện Thệ.

,(125)
Pháp Có Quả Lớn
,1. Mười pháp này, có quả lớn, có lợi ích, chỉ có trong Luật của bậc Thiện Thệ.
,Thế nào là mười?
,2. Chánh tri kiến... chánh giải thoát.
,Mười pháp này, có quả lớn, có lợi ích lớn, chỉ có trong Luật của bậc Thiện Thệ.

,(126)
Cứu Cánh Nhiếp Phục Tham
,1. Mười pháp này, cứu cánh là nhiếp phục tham, cứu cánh là nhiếp phục sân, cứu cánh là nhiếp phục si, chỉ có mặt trong Luật của bậc Thiện Thệ.
,Thế nào là mười?
,2. Chánh tri kiến... chánh giải thoát.
,Mười pháp này, cứu cánh là nhiếp phục tham, cứu cánh là nhiếp phục sân, cứu cánh là nhiếp phục si, chỉ có mặt trong Luật của bậc Thiện Thệ.

,(127)
Nhất Hướng Nhàm Chán
,1. Mười pháp này, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, chỉ có mặt trong Luật của bậc Thiện Thệ.
,Thế nào là mười?
,2. Chánh tri kiến... chánh giải thoát.
,Mười pháp này, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, chỉ có mặt trong Luật của bậc Thiện Thệ.

,(128)
Ðược Tu Tập (1)
,1. Mười pháp này, được tu tập, được làm cho sung mãn, chưa khởi lên, chỉ khởi lên trong Luật của bậc Thiện Thệ.
,Thế nào là mười?
,2. Chánh tri kiến... chánh giải thoát.
,3. Mười pháp này, được tu tập, được làm cho sung mãn, chưa được khởi lên, chỉ khởi lên trong Luật của bậc Thiện Thệ.

,(129)
Ðược Tu Tập (2)
,1. Mười pháp này, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, chỉ có mặt trong Luật của bậc Thiện Thệ.
,Thế nào là mười?
,2. Chánh tri kiến... chánh giải thoát.
,3. Mười pháp này, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, chỉ có mặt trong Luật của bậc Thiện Thệ.

,(130)
Ðược Tu Tập (3)
,1. Mười pháp này, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, cứu cánh là nhiếp phục tham, cứu cánh là nhiếp phục sân, cứu cánh là nhiếp phục si, chỉ có được trong Luật của bậc Thiện Thệ.
,Thế nào là mười?
,2. Chánh tri kiến... chánh giải thoát.
,Mười pháp này, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, cứu cánh là nhiếp phục tham, cứu cánh là nhiếp phục sân, cứu cánh là nhiếp phục si, chỉ có được trong Luật của bậc Thiện Thệ.

,(131)
Ðược Tu Tập (4)
,1. Mười pháp này, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, chỉ có mặt trong Luật của bậc Thiện Thệ.
,Thế nào là mười?
,2. Chánh tri kiến... chánh giải thoát.
,Mười pháp này, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, chỉ có mặt trong Luật của bậc Thiện Thệ.

,(132)
Tà Tánh
,1. Có mười tà tánh này:
,Thế nào là mười?
,2. Tà kiến... tà giải thoát.
,Này các Tỷ-kheo, có mười tà tánh này.

,(133)
Chánh Tánh
,1. Có mười chánh tánh này:
,Thế nào là mười?
,2. Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh trí, chánh giải thoát.

PHẨM XIV
(Kinh số 134-144)

,(134)
Lành Và Không Lành
,Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Thầy về lành và không lành. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
,- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
,Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
,1. Này các Tỷ-kheo, thế nào là không lành?
,Tà kiến... tà giải thoát.
,Này các Tỷ-kheo, như vậy là không lành.
,2. Và thế nào là lành?
,Chánh kiến... chánh giải thoát.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là lành.

,(135)
Thánh và Phi Thánh
,Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về Thánh pháp và phi Thánh pháp. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
,- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
,Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
,1. Và thế nào là phi Thánh pháp?
,Tà kiến... tà giải thoát.
,Như vậy, gọi là phi Thánh pháp.
,2. Và thế nào là Thánh pháp?
,Chánh kiến... chánh giải thoát.
,Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Thánh pháp.

,(136)
Thiện và Bất Thiện
,(Giống như kinh trước, chỉ đổi thiện và bất thiện)

,(137)
Mục Ðích và Phi Mục Ðích
,(Giống như kinh trước, chỉ đổi mục đích và phi mục đích)

,(138)
Pháp và Phi Pháp
,(Giống như kinh trước, chỉ đổi pháp và phi pháp)

,(139)
Hữu Lậu và Vô Lậu
,(Giống như kinh trước, chỉ đổi hữu lậu và vô lậu)

,(140)
Có Tội và Vô Tội
,(Giống như kinh trước, chỉ đổi có tội và vô tội)

,(141)
Hối Hận và Không Hối Hận
,(Giống như kinh trước, chỉ đổi hối hận và không hối hận)

,(142)
Ði Ðến Tích Tập và Không Tích Tập
,(Giống như kinh trước, chỉ đổi có tích tập và không tích tập)

,(143)
Dẫn Khổ và Dẫn Lạc
,(Giống như kinh trước, chỉ đổi có dẫn khổ và dẫn lạc)

,(144)
Khổ Dị Thục và Lạc Dị Thục
,(Giống như kinh trước, chỉ đổi khổ dị thục và lạc dị thục)

PHẨM XV
(Kinh số 145-154)

,(145)
Thánh Đạo và Phi Thánh Đạo
,(Như kinh trước, chỉ đổi Thánh đạo và phi Thánh đạo)

,(146)
Bạch Ðạo và Hắc Ðạo
,(Như kinh trước, chỉ đổi bạch đạo và hắc đạo)

,(147)
Diệu Pháp và Phi Diệu Pháp
,(Như kinh trước, chỉ đổi diệu pháp và phi diệu pháp)

,(148)
Chân Nhân Pháp và Phi Chân Nhân Pháp
,(Như kinh trước, chỉ đổi chân nhân pháp và phi chân nhân pháp)

,(149)
Cần Khởi Lên và Không Cần Khởi Lên
,(Như kinh trước, chỉ khác chữ cần khởi lên và không cần khởi lên)

,(150)
Cần Phải Thực Hiện và Không Cần Phải Thực Hiện
,(Như kinh trước, chỉ khác chữ cần phải thực hiện và không cần phải thực hiện)

,(151)
Cần Phải Tu Tập Và Không Cần Phải Tu Tập
,(Như kinh trước, chỉ khác chữ cần phải tu tập và không cần phải tu tập)

,(152)
Cần Phải Làm Sung Mãn và Không Cần Phải Làm Sung Mãn
,(Như kinh trước, chỉ khác chữ cần phải làm sung mãn và không cần phải làm sung mãn)

,(153)
Cần Phải Nhớ và Không Cần Phải Nhớ
,(Như kinh trước, chỉ khác chữ cần phải nhớ và không cần phải nhớ)

,(154)
Cần Phải Chứng Ngộ và Không Cần Phải Chứng Ngộ
,(Như kinh trước, chỉ khác chữ cần phải chứng ngộ và không cần phải chứng ngộ)

PHẨM XVI
(Kinh số 155-166)

,(155)
Người Không Nên Thân Cận
,1. Người thành tựu mười pháp này, là người không nên thân cận.
,Thế nào là mười?
,Người có tà kiến, tà tư duy... tà giải thoát.
,Người thành tựu mười pháp này, là người không nên thân cận.
,2. Người thành tựu mười pháp này, là người nên thân cận.
,Thế nào là mười?
,Người có chánh kiến... chánh giải thoát.
,Người thành tựu mười pháp này, là người nên thân cận.

,(156-166)
Những Người Sai Khác
,1/2:
,Thành tựu với mười pháp này, là những người:
,không nên giao thiệp... nên giao thiệp...
,không nên hầu hạ... nên hầu hạ...
,không nên đảnh lễ... nên đảnh lễ...
,không nên tán thán... nên tán thán...
,không nên tôn trọng... nên tôn trọng...
,không nên tỏ sự cung kính... nên tỏ sự cung kính...
,không thành công... thành công...
,không thanh tịnh... có thanh tịnh...
,không có chinh phục mạn... có chinh phục mạn...
,không tăng trưởng với trí tuệ... có tăng trưởng với trí tuệ...
,tạo nhiều phi công đức... tạo nhiều công đức.
,Thế nào là mười?
,Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh trí, chánh giải thoát.
,3. Thành tựu với mười pháp này, là người tạo nhiều công đức.
...

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Trangphattu Yếu lược & Bố cục

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

PHẦN DẪN GIẢI-CHÚ THÍCH-BÌNH LUẬN

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.