[Các Liên Kết]

MỤC LỤC: KINH TẠNG

[T.U 4-01B—PHẨM IV-V]


...
TƯƠNG ƯNG 6 XỨ
[§2]

PHẨM IV
(Các Tôn Giả)

,(1)
Biến Hoại (Paloka)
,Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn... Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
,- "Thế giới, thế giới", như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi là thế giới?
,- Cái gì chịu sự biến hoại (palokadhamma), này Ananda, đây gọi là thế giới trong giới luật của bậc Thánh.
,Và cái gì chịu sự biến hoại?
,1- Mắt, này Ananda, chịu sự biến hoại. Các sắc chịu sự biến hoại. Nhãn thức chịu sự biến hoại. Nhãn xúc chịu sự biến hoại. Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy chịu sự biến hoại.
,2-5:
,.. Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
,6. Ý chịu sự biến hoại. Các pháp chịu sự biến hoại. Ý thức chịu sự biến hoại. Ý xúc chịu sự biến hoại. Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy chịu sự biến hoại.
,- Cái gì chịu sự biến hoại, này Ananda, cái ấy gọi là thế giới trong giới luật của bậc Thánh.

,(2)
Trống Không
,Rồi Tôn giả Ananda... bạch Thế Tôn:
,- "Trống không là thế giới, trống không là thế giới", như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi trống không là thế giới?
,- Vì rằng, này Ananda, thế giới là không tự ngã, và không thuộc tự ngã, nên thế giới được gọi là trống không.
,Và cái gì, là không tự ngã và không thuộc tự ngã?
,1- Mắt, này Ananda, là không tự ngã và không thuộc tự ngã. Các sắc là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã. Nhãn thức là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã. Nhãn xúc là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã...
,... Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy không có tự ngã hay không thuộc tự ngã.
,2. Và vì rằng, này Ananda, không có tự ngã, hay không thuộc tự ngã nên được gọi trống không là thế giới này.

,(3)
Vắn Tắt
,Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda... bạch Thế Tôn:
,- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vắn tắt thuyết pháp cho con. Sau khi nghe pháp của Thế Tôn, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
,1- Ông nghĩ thế nào, này Ananda, mắt là thường hay vô thường?
,- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
,- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
,- Là khổ, bạch Thế Tôn.
,- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là:
,- "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
,- Thưa không, bạch Thế Tôn.
,- Các sắc là thường hay vô thường?
,- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
, ... Nhãn thức... Nhãn xúc... Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là thường hay vô thường?
,- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
,- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
,- Là khổ, bạch Thế Tôn.
,- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là:
,- "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
,- Thưa không, bạch Thế Tôn.
,2-5:
,... Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
,6. Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là thường hay vô thường?
,- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
,- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
,- Là khổ, bạch Thế Tôn.
,- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là:
,- "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
,- Thưa không, bạch Thế Tôn.
,- Thấy vậy, này Ananda, bậc Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt... nhàm chán đối với nhãn xúc... nhàm chán đối với ý xúc. Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán cảm thọ ấy. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy được giải thoát.
,Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng:
,- "Ta đã được giải thoát".
,Vị ấy biết rõ:
,- "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".

,(4)
Channa
,Một thời Thế Tôn ở tại Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
,Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàriputta, Tôn giả Mahà Cunda và Tôn giả Channa trú ở núi Gijjhakù. Lúc bấy giờ, Tôn giả Channa bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh.
,Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahà Cunda; sau khi đến nói với Tôn giả Mahà Cunda:
,- Này Hiền giả Cunda, chúng ta hãy đi đến Tôn giả Channa để hỏi thăm về bệnh hoạn.
,- Thưa vâng, Hiền giả.
,Tôn giả Mahà Cunda vâng đáp Tôn giả Sàriputta. Rồi Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahà Cunda đi đến Tôn giả Channa, sau khi đến ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
,Sau khi ngồi, Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả Channa:
[1]
,- Này Hiền giả Channa, Hiền giả có kham nhẫn được chăng? Có chịu đựng được chăng? Có phải khổ thọ giảm thiểu, không có tăng trưởng? Có phải có triệu chứng giảm thiểu, không phải tăng trưởng?
,- Thưa Hiền giả Sàriputta tôi không có thể kham nhẫn, không có thể chịu đựng. Mãnh liệt là các khổ thọ tôi cảm giác! Chúng tăng trưởng, không có giảm thiểu. Có triệu chứng tăng trưởng, không phải giảm thiểu.
,1. Này Hiền giả, ví như một người lực sĩ chém đầu một người khác với một thanh kiếm sắc. Cũng vậy, những ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu tôi. Thưa Hiền giả, tôi không có thể kham nhẫn, không có thể chịu đựng... không phải giảm thiểu.
,2. Này Hiền giả, ví như một người lực sĩ lấy một dây nịt bằng da cứng quấn tròn quanh đầu rồi xiết mạnh. Cũng vậy, tôi cảm thấy đau đầu một cách kinh khủng. Này Hiền giả, tôi không thể kham nhẫn, không có thể chịu đựng... không phải giảm thiểu.
,3. Này Hiền giả, ví như một người đồ tể thiện xảo hay một đệ tử người đồ tể mổ bụng với một con dao cắt thịt bò sắc bén. Cũng vậy, những ngọn gió kinh khủng cắt mổ bụng của tôi. Thưa Hiền giả, tôi không có thể kham nhẫn, không có thể chịu đựng... không phải giảm thiểu.
,4. Này Hiền giả, ví như hai người lực sĩ sau khi nắm một người yếu hơn với những cánh tay của mình, nướng người ấy, đốt người ấy trên một hố than hừng. Cũng vậy, một sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân tôi. Này Hiền giả, tôi không có thể kham nhẫn, không có thể chịu đựng. Mãnh liệt là các khổ thọ tôi cảm giác! Chúng tăng trưởng, không có giảm thiểu. Có triệu chứng tăng trưởng, không phải giảm thiểu.
,5. Thưa Hiền giả Sàriputta, tôi sẽ đem lại con dao. Tôi không muốn sống nữa.
[2]
,- Tôn giả Channa, chớ có đem lại con dao! Tôn giả Channa, hãy chịu đựng! Chúng tôi muốn Tôn giả Channa chịu đựng.
,1. Nếu Tôn giả Channa không có các món ăn, không có các dược phẩm thích hợp, thời tôi sẽ tìm các dược phẩm thích hợp cho Tôn giả Channa. Nếu Tôn giả Channa không có người hầu hạ thích ứng, thời tôi sẽ hầu hạ Tôn giả Channa.
,Tôn giả Channa chớ có đem lại con dao. Tôn giả Channa hãy chịu đựng. Chúng tôi muốn Tôn giả Channa chịu đựng.
,2- Thưa Hiền giả Sàriputta, không phải tôi không có các món ăn thích hợp, tôi có các món ăn thích hợp. Không phải tôi không có các dược phẩm thích hợp, tôi có các dược phẩm thích hợp. Không phải tôi không có những người hầu hạ thích ứng, tôi có những người hầu hạ thích ứng.
,3. Ðã lâu ngày tôi hầu hạ bậc Ðạo Sư với tâm thích thú, không phải không thích thú. Ðây, thưa Hiền giả, là xứng đáng với người đệ tử. Vì rằng đã hầu hạ bậc Ðạo Sư với tâm thích thú, không phải không thích thú.
,4. Không có phạm tội, nếu Tỷ-kheo Channa đem lại con dao. Này Hiền giả Sàriputta, Hiền giả hãy thọ trì như vậy.
[3]
,- Chúng tôi sẽ hỏi Tôn giả Channa một câu, nếu Tôn giả Channa kham nhẫn được hỏi và trả lời.
,- Hãy hỏi đi, Hiền giả Sàriputta, sau khi nghe, chúng ta sẽ biết.
,1- Này Hiền giả Channa, mắt, nhãn thức, những pháp do nhãn thức nhận biết, Hiền giả có quán:
,- " Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
,... Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
,Này Hiền giả Channa, ý, ý thức, các pháp do ý thức nhận biết, Hiền giả có quán:
,- "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
,- Này Hiền giả Sàriputta, mắt, nhãn thức,... (cho đến)... các pháp do ý thức nhận biết, tôi quán:
,- "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
,2- Này Hiền giả Channa, trong mắt, trong nhãn thức, trong các pháp do nhãn thức nhận biết, do thấy gì, do thắng tri gì mà Hiền giả quán:
,- "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi"?
,- Thưa Hiền giả Sàriputta, trong mắt, trong nhãn thức, trong các pháp do nhãn thức nhận biết, sau khi thấy đoạn diệt, sau khi thắng tri đoạn diệt, tôi quán:
,- "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
,- Trong tai... Trong mũi... Trong lưỡi... Trong thân..
,Thưa Hiền giả... Trong ý, trong ý thức, trong các pháp do ý thức nhận biết, sau khi thấy đoạn diệt, sau khi thắng tri đoạn diệt, tôi quán:
,- "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
,Ðược nghe nói vậy, Tôn giả Mahà Cunda nói với Tôn giả Channa:
,3- Hiền giả Channa, Hiền giả cần phải luôn luôn chú ý đến lời dạy này của Thế Tôn:
,- "Ai còn tham luyến, thời có dao động; ai không tham luyến, thời không dao động. Ai không dao động, thời được khinh an. Ai được khinh an, thời không thiên chấp. Ai không thiên chấp (nati), thời không có đến và đi. Ai không có đến và đi, thời không có diệt và sanh. Ai không có diệt và sanh, thời không có đời này, đời sau, không có giữa hai đời. Ðây là sự đoạn tận đau khổ".
,Rồi Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahà Cunda, sau khi giáo giới Tôn giả Channa với lời giáo giới này, từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi.
,Tôn giả Channa, sau khi hai vị Tôn giả ấy đi không bao lâu, liền đem lại con dao.
[4]
,Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn:
,1- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Channa đã đem lại con dao. Sanh thú của vị ấy là gì? Ðời sau vị ấy sẽ như thế nào?
,- Có phải trước mặt Ông, này Sàriputta, Tỷ-kheo Channa đã tuyên bố là không phạm tội?
,2- Thưa có, bạch Thế Tôn. Có một làng của dân tộc Vajji tên là Pubbavijjhamam; tại đấy, có những gia đình thân hữu, có những gia đình thân thích với Tôn giả Channa, chính những gia đình ấy mới có lỗi.
,- Này Sàriputta, những gia đình thân hữu và những gia đình thân thích ấy của Tôn giả Channa là những gia đình có lỗi. Tuy vậy, này Sàriputta, với sự việc như vậy, Ta không nói Channa là có lỗi.
,3. Này Sàriputta, ai bỏ thân này và chấp thủ thân khác; người ấy, Ta nói là có lỗi. Nhưng Tỷ-kheo Channa thời không vậy. Tỷ-kheo Channa không có tội lỗi khi đem lại con dao. Này Sàriputtra, Ông cần phải thọ trì như vậy.

,(5)
Punna
,Rồi Tôn giả Punna đi đến Thế Tôn... Ngồi xuống một bên, Tôn giả Punna bạch Thế Tôn:
,- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vắn tắt thuyết pháp cho con. Sau khi nghe pháp của Thế Tôn, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
[1]
,1- Này Punna, có những sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ sắc ấy, tán dương, an trú luyến trước; do vị ấy hoan hỷ sắc ấy, tán dương, an trú luyến trước, hỷ (nandì) sanh.
,Này Punna, Ta nói rằng:
,- "Do hỷ tập khởi nên khổ tập khởi".
,2-5:
,- Này Punna, có những tiếng do tai nhận thức... Có.những hương do mũi nhận thức... Có những vị do lưỡi nhận thức.. Có những xúc do thân nhận thức...
,6. Này Punna, có những pháp do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ pháp ấy, tán dương, an trú luyến trước; do vị ấy hoan hỷ pháp ấy, tán dương, an trú luyến trước nên hỷ sanh.
,Này Punna, Ta nói rằng:
,- "Do hỷ tập khởi nên khổ tập khởi".
[2]
,1- Này Punna, có những sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ sắc ấy, không tán dương, không an trú luyến trước; do vị ấy không hoan hỷ sắc ấy, không tán dương, không an trú luyến trước nên hỷ đoạn diệt.
,Này Punna, Ta nói rằng:
,- "Do hỷ đoạn diệt nên khổ đoạn diệt".
,2-5:...
,6. Này Punna, có những pháp do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ pháp ấy, không tán dương, không an trú luyến trước; do vị ấy không hoan hỷ pháp ấy, không tán dương, không an trú luyến trước nên hỷ đoạn diệt.
,Này Punna, Ta nói rằng:
,- "Do hỷ đoạn diệt nên khổ đoạn diệt".
[3]
,Này Punna, sau khi được nghe giáo giới với lời giáo giới vắn tắt này của Ta, Ông sẽ trú tại quốc độ nào?
,- Bạch Thế Tôn, có một quốc độ tên là Sunàparanta, tại đấy con sẽ ở.
,1- Thô bạo, này Punna, là người xứ Sunàparanta. Ðộc ác, này Punna, là người xứ Sunàparanta. Nếu người xứ Sunàparanta, chửi bới, nhiếc mắng Ông, thời này Punna, ở đây, Ông nghĩ thế nào?
,- Nếu người xứ Sunàparanta, chửi bới, nhiếc mắng con, ở đây, con sẽ nghĩ:
,- "Thật là hiền thiện, người xứ Sunàparanta này! Thật là khéo hiền thiện, người xứ Sunàparanta này! Vì những người này không lấy tay đánh đập ta".
,Như vậy, ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy. Như vậy, ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.
,2- Nếu người xứ Sunàparanta, sẽ đánh đập Ông bằng tay, thời ở đây, này Punna, Ông sẽ nghĩ thế nào?
,- Nếu người xứ Sunàparanta, đánh đập con bằng tay, thời ở đây, con sẽ suy nghĩ:
,- "Thật là hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Thật là khéo hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Vì những người này không đánh đập ta bằng cục đất".
,Ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy. Ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.
,3- Nhưng nếu người xứ Sunàparanta, đánh đập Ông bằng cục đất, thời ở đây, này Punna, Ông nghĩ thế nào?
,- Nếu những người xứ Sunàparanta, đánh đập con bằng cục đất, thời ở đây, con sẽ suy nghĩ:
,- "Thật là hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Thật là khéo hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Vì những người này không đánh đập ta bằng gậy".
,Ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy. Ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.
,4- Nhưng nếu những người xứ Sunàparanta, sẽ đánh đập Ông với gậy, thời ở đây, này Punna, Ông nghĩ thế nào?
,- Nếu những người xứ Sunàparanta này, sẽ đánh đập con với gậy, thời ở đây, con sẽ suy nghĩ:
,- "Thật là hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Thật là khéo hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Vì những người này không đánh đập ta bằng kiếm".
,Ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy. Ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.
,5- Nhưng nếu những người xứ Sunàparanta, lại đánh đập Ông bằng kiếm, thời ở đây, này Punna, Ông sẽ nghĩ thế nào?
,- Nếu những người xứ Sunàparanta, đánh đập con với cây kiếm, thời ở đây, con sẽ suy nghĩ:
,- "Thật là hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Thật là khéo hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Vì những người này không đoạn mạng ta với cây kiếm sắc bén".
,Ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy. Ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.
,6- Nhưng nếu những người xứ Sunàparanta, sẽ đoạn mạng Ông với lưỡi kiếm sắc bén, thời ở đây, này Punna, Ông sẽ nghĩ như thế nào?
,- Nếu những người xứ Sunàparanta, bạch Thế Tôn, sẽ đoạn mạng con với lưỡi kiếm sắc bén, thời ở đây, con sẽ suy nghĩ:
,- "Có những đệ tử của Thế Tôn, khi phiền não, tủi hổ và ghê tởm bởi thân và sinh mạng đã sử dụng đến con dao. Nay dầu không tìm đến ta vẫn được sử dụng con dao".
,Ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy. Ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.
,7- Lành thay, lành thay, này Punna! Ðầy đủ với sự an tịnh tự điều này, Ông có thể sống tại quốc độ Sunàparanta. Này Punna, nay Ông hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.
[4]
,Rồi Tôn giả Punna hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, dọn dẹp sàng tọa, cầm y bát, rồi bộ hành đi đến xứ Sunàparanta. Ngài tuần tự bộ hành và đến xứ Sunàparanta. Tại đây, Tôn giả Punna trú tại xứ Sunàparanta.
,1. Và trong mùa mưa ấy, Tôn giả Punna độ cho khoảng 500 cư sĩ. Cũng trong mùa mưa ấy, Tôn giả chứng được ba minh. Và cũng trong mùa mưa ấy Tôn giả Punna viên tịch.
,2. Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn... Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
,- Bạch Thế Tôn, thiện gia nam tử Punna, sau khi được Thế Tôn giáo giới một cách vắn tắt, đã mệnh chung. Sanh thú của vị ấy là gì? Ðời sau của vị ấy thế nào?
,3- Bậc Hiền trí, là thiện nam tử Punna. Sở hành là đúng pháp và thuận pháp. Vị ấy không làm phiền não Ta với những kiện tụng về pháp.
,Hoàn toàn tịch diệt, này các Tỷ-kheo, là thiện nam tử Punna.

,(6)
Bàhiya
,Rồi Tôn giả Bàhiya đi đến Thế Tôn... Ngồi xuống một bên, Tôn giả Bàhiya bạch Thế Tôn:
,- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vắn tắt thuyết pháp cho con. Sau khi nghe pháp của Thế Tôn, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
,1. Ông nghĩ thế nào, này Bàhiya, mắt là thường hay vô thường?
,- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
,- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
,- Là khổ, bạch Thế Tôn.
,- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán:
,- "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
,- Thưa không, bạch Thế Tôn.
,- Các sắc là thường hay vô thường?
,- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
,- Nhãn thức... Nhãn xúc....
,... Do duyên ý xúc này khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là thường hay vô thường?
,- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
,- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
,- Là khổ, bạch Thế Tôn.
,- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán:
,- "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
,- Thưa không, bạch Thế Tôn.
,2- Thấy vậy, này Bàhiya, bậc Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với sắc, nhàm chán đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc... Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát.
,3. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng:
,- "Ta đã được giải thoát".
,Vị ấy biết rõ:
,- "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
,Và Tôn giả Bàhiya trở thành một vị A-la-hán nữa.

,(7)
Ái Nhiễm-1 (Ejà)
[1]
,1- Ái nhiễm, này các Tỷ-kheo, là bệnh tật; ái nhiễm là mụt nhọt; ái nhiễm là mũi tên.
,Do vậy, Như Lai sống không ái nhiễm, không bị mũi tên làm bị thương.
,2. Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước vọng gì, hãy ước sống không ái nhiễm, không bị mũi tên làm bị thương.
[2]
,1. Chớ có nghĩ đến mắt, chớ có nghĩ đến trong mắt, chớ có nghĩ đến từ mắt, chớ có nghĩ đến: "Mắt là của tôi". Chớ có nghĩ đến các sắc, chớ có nghĩ đến trong các sắc, chớ có nghĩ đến từ các sắc, chớ có nghĩ đến: "Các sắc là của tôi". Chớ có nghĩ đến nhãn thức, chớ có nghĩ đến trong nhãn thức, chớ có nghĩ đến từ nhãn thức, chớ có nghĩ đến: "Nhãn thức là của tôi". Chớ có nghĩ đến nhãn xúc, chớ có nghĩ đến trong nhãn xúc, chớ có nghĩ đến từ nhãn xúc, chớ có nghĩ đến: "Nhãn xúc là của tôi". Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; chớ có nghĩ đến cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến trong cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến từ cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến: "Cảm thọ ấy là tôi".
,2-5:
,Chớ có nghĩ đến tai... Chớ có nghĩ đến mũi... Chớ có nghĩ đến lưỡi... Chớ có nghĩ đến thân...
,6. Chớ có nghĩ đến ý, chớ có nghĩ đến trong ý, chớ có nghĩ đến từ ý, chớ có nghĩ đến: "Ý là của tôi". Chớ có nghĩ đến các pháp, chớ có nghĩ đến trong các pháp, chớ có nghĩ đến từ các pháp, chớ có nghĩ đến: "Các pháp là của tôi". Chớ có nghĩ đến ý thức, chớ có nghĩ đến trong ý thức, chớ có nghĩ đến từ ý thức, chớ có nghĩ đến: "Ý thức là của tôi". Chớ có nghĩ đến ý xúc, chớ có nghĩ đến trong ý xúc, chớ có nghĩ đến từ ý xúc, chớ có nghĩ đến: "Ý xúc là của tôi". Do duyên ý xúc, khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; chớ có nghĩ đến cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến trong cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến từ cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến: "Cảm thọ ấy là của tôi".
[3]
,1- Chớ có nghĩ đến tất cả, chớ có nghĩ đến trong tất cả, chớ có nghĩ đến từ tất cả, chớ có nghĩ đến:
,- "Tất cả là của tôi".
,2. Vị ấy do không nghĩ đến nên không chấp thủ một vật gì ở đời. Do không chấp thủ, vị ấy không có dao động (paritassati). Do không dao động, vị ấy tự mình tịch tịnh một cách hoàn toàn.
,3. Vị ấy biết rõ:
,- "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".

,(8)
Ái Nhiễm-2
[1]
,1- Ái nhiễm, này các Tỷ-kheo, là bệnh tật, ái nhiễm là mụt nhọt, ái nhiễm là mũi tên.
,Do vậy, Như Lai sống không ái nhiễm, không bị mũi tên bắn.
,2. Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu có mong ước, hãy mong ước không ái nhiễm, không bị mũi tên bắn.
[2]
,1. Chớ có nghĩ đến mắt, chớ có nghĩ đến trong mắt, chớ có nghĩ đến từ mắt, chớ có nghĩ đến: "Mắt là của ta". Chớ có nghĩ đến các sắc, chớ có nghĩ đến trong các sắc, chớ có nghĩ đến từ các sắc, chớ có nghĩ đến: "Các sắc là của ta". Chớ có nghĩ đến nhãn thức... Chớ có nghĩ đến nhãn xúc... Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; chớ có nghĩ đến cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến trong cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến từ cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến: "Cảm thọ ấy là của ta".
,Này các Tỷ-kheo, nghĩ đến cái gì, nghĩ đến trong cái gì, nghĩ đến từ cái gì, nghĩ đến: "Cái gì là của ta", từ đấy cái ấy đổi khác. Vì rằng bị đổi khác, vì chấp trước tái sanh (Bhavasatto), nên thế giới hoan hỷ tái sanh.
,2-5:
,... tai... mũi... lưỡi... thân...
,6. Chớ có nghĩ đến ý, chớ có nghĩ đến trong ý, chớ có nghĩ đến từ ý, chớ có nghĩ đến: "Ý là của ta". Chớ có nghĩ đến các pháp, chớ có nghĩ đến trong các pháp, chớ có nghĩ đến từ các pháp, chớ có nghĩ đến: "Các pháp là của ta". Chớ có nghĩ đến ý thức, chớ có nghĩ đến trong ý thức, chớ có nghĩ đến từ ý thức, chớ có nghĩ đến: "Ý thức là của ta". Chớ có nghĩ đến ý xúc, chớ có nghĩ đến trong ý xúc, chớ có nghĩ đến từ ý xúc, chớ có nghĩ đến: "Ý xúc là của ta". Do duyên ý xúc, khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; chớ có nghĩ đến cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến trong cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến từ cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến: "Cảm thọ ấy là của ta".
,Này các Tỷ-kheo, nghĩ đến cái gì, nghĩ đến trong cái gì, nghĩ đến từ cái gì, nghĩ đến: "Cái gì là của ta", từ đấy cái ấy đổi khác. Vì rằng bị đổi khác, vì chấp trước tái sanh, nên thế giới hoan hỷ tái sanh.
[3]
,1- Này các Tỷ-kheo, cho đến uẩn, giới, xứ... chớ có nghĩ đến cái ấy, chớ có nghĩ đến trong cái ấy, chớ có nghĩ đến từ cái ấy, chớ có nghĩ đến:
,- "Cái ấy là của ta".
,2. Vị ấy không nghĩ đến như vậy nên không chấp thủ một cái gì trong đời. Do không chấp thủ nên không có dao động. Do không có dao động, vị ấy tự mình tịch tịnh một cách hoàn toàn.
,3. Vị ấy biết rõ:
,- "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".

,(9)
Cả Hai (1)
,- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông về cả hai. Hãy lắng nghe.
,1. Này các Tỷ-kheo, thế nào là cả hai?
,- Mắt và các sắc, tai và các tiếng, mũi và các hương, lưỡi và các vị, thân và các xúc, ý và các pháp. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là cả hai.
,2. Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau:
,- "Sau khi đoạn tận hai cái này, tôi sẽ trình bày hai cái khác";
thời người ấy chỉ nói suông, nếu hỏi, người ấy không có thể chứng minh, còn có thể rơi vào ách nạn.
,3. Vì sao?
,- Vì rằng vấn đề ấy vượt ngoài phạm vi của người ấy.

,(10)
Cả Hai (2)
,- Do duyên cả hai, thức hiện hữu.
,Này các Tỷ-kheo, thế nào là do duyên cả hai, thức hiện hữu?
[1]
,1- Do duyên mắt và các sắc, khởi lên nhãn thức.
,Mắt là vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác. Các sắc là vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác. Như vậy, cả hai này là biến động, tiêu tan, vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác. Nhãn thức là vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác. Do nhân nào, do duyên nào, nhãn thức khởi lên; nhân ấy, duyên ấy là vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác.
,Này các Tỷ-kheo, nhãn thức này khởi lên từ một duyên vô thường, từ đâu sẽ thành thường còn được?
,2. Này các Tỷ-kheo, sự hợp hội, tụ tập, hòa hợp của ba pháp này, đây gọi là nhãn xúc. Nhãn xúc cũng vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác. Do nhân nào, do duyên nào, nhãn xúc khởi lên; nhân ấy, duyên ấy là vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác.
,Này các Tỷ-kheo, nhãn xúc này khởi lên từ một duyên vô thường, từ đâu sẽ trở thành thường còn được?
,3. Do xúc nên có cảm thọ, do xúc nên có tư lường, do xúc nên có hay biết. Ở đây, các pháp này là biến động, tiêu tan, vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác.
[2]
,Và do duyên tai và các tiếng khởi lên nhĩ thức...
[3]
,Và do duyên mũi và các hương khởi lên tỷ thức...
[4]
,Và do duyên lưỡi và các vị khởi lên thiệt thức...
[5]
,Và do duyên thân và các xúc khởi lên thân thức...
[6]
,1. Và do duyên ý và các pháp khởi lên ý thức.
,Ý là vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác. Các pháp là vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác. Ở đây, cả hai cái này là biến động, tiêu tan, vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác. Ý thức là vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác. Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho ý thức khởi lên; nhân ấy, duyên ấy là vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác.
,Này các Tỷ-kheo, ý thức khởi lên do duyên vô thường, thời từ đâu sẽ thường còn được?
,2. Này các Tỷ-kheo, sự hợp hội, tụ tập, hòa hợp của ba pháp này, này các Tỷ-kheo, đây gọi là ý xúc. Ý xúc cũng vô thường, biến hoại, tự tánh là đổi khác. Do nhân gì, duyên gì khiến ý xúc sanh khởi; nhân ấy, duyên ấy là vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác.
,Này các Tỷ-kheo, ý xúc khởi lên do duyên vô thường, từ đâu sẽ là thường còn được?
,3. Này các Tỷ-kheo, do xúc nên có cảm thọ, do xúc nên có tư lường, do xúc nên có hay biết. Ở đây, các pháp này là biến động, tiêu tan, vô thường biến hoại, tự tánh đổi khác.
,Như vậy, này các Tỷ-kheo, do duyên cả hai, thức hiện hữu.

PHẨM V
(Từ Bỏ)

,(1)
Thâu Nhiếp (1)
[1]
,- Có sáu xúc xứ này, này các Tỷ-kheo, không nhiếp phục, không phòng hộ, không bảo vệ, không thâu nhiếp, đem lại đau khổ.
,Thế nào là sáu?
,1- Mắt xúc xứ, không nhiếp phục, không phòng hộ, không bảo vệ, không thâu nhiếp, đem lại đau khổ.
,2-5:
,... Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
,6. Ý xúc xứ, này các Tỷ-kheo, không nhiếp phục, không phòng hộ, không bảo vệ, không thâu nhiếp, đem lại đau khổ.
,Sáu xúc xứ này, không nhiếp phục, không phòng hộ, không bảo vệ, không thâu nhiếp, đem lại đau khổ.
[2]
,- Có sáu xúc này, này các Tỷ-kheo, khéo nhiếp phục, khéo phòng hộ, khéo bảo vệ, khéo thâu nhiếp, đem lại an lạc.
,Thế nào là sáu?
,1- Mắt xúc xứ, khéo nhiếp phục, khéo phòng hộ, khéo bảo vệ, khéo thâu nhiếp, đem lại an lạc.
,2-5:
,... Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
,6. Ý xúc xứ, này các Tỷ-kheo, khéo nhiếp phục, khéo phòng hộ, khéo bảo vệ, khéo thâu nhiếp, đem lại an lạc.
,Sáu xúc xứ này, khéo nhiếp phục, khéo phòng hộ, khéo bảo vệ, khéo thâu nhiếp, đem lại an lạc.
[3]
,Thế Tôn nói như vậy. Nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:
,Hỡi các vị Tỷ-kheo,
,Chính sáu xúc xứ này,
,Chỗ nào không thâu nhiếp,
,Chỗ ấy có đau khổ.
,Những ai học biết được,
,Chế ngự, phòng hộ chúng,
,Với lòng tin làm bạn,
,Sống thoát ly dục vọng.
,Thấy sắc pháp khả ái,
,Thấy sắc không khả ái,
,Hãy nhiếp phục đường tham,
,Ðối các sắc khả ái,
,Chớ khiến ý nhiễm ô:
,"Ðối sắc, ta không thích".
,Sau khi nghe các tiếng,
,Khả ái, không khả ái,
,Chớ để tâm say mê,
,Với các tiếng khả ái.
,Hãy nhiếp phục lòng sân,
,Với tiếng không khả ái,
,Chớ khiến ý nhiễm ô:
,"Ðối tiếng, ta không thích".
,Sau khi ngửi các hương,
,Thơm dịu, thật khả ái,
,Sau khi ngửi các hương,
,Bất tịnh, thật đáng ghét;
,Hãy nhiếp phục lòng sân,
,Ðối các hương đáng ghét,
,Còn đối hương khả ái,
,Chớ để dục chi phối.
,Nếm xong vị ngon ngọt,
,Và nếm vị không ngon,
,Chớ có sanh tham luyến,
,Khi hưởng nếm vị ngon,
,Chớ nói lời chống đối,
,Khi nếm vị không ngon.
,Khi cảm thọ lạc xúc,
,Chớ đắm say tham luyến,
,Khi cảm thọ khổ xúc,
,Chớ bị xúc động mạnh.
,Ðối với cả hai xúc,
,Lạc, khổ đều niệm xả,
,Không thích, không chống đối,
,Bất cứ loại xúc nào.
,Ðối với các người khác,
,Mê theo hý luận tưởng,
,Họ mê theo hý luận,
,Họ hành theo hư tưởng;
,Hãy đoạn trừ tất cả,
,Gia sự do ý tạo,
,Hãy nhiếp các hành động,
,Hướng đến hạnh viễn ly.
,Như vậy đối sáu xứ,
,Khi ý khéo tu tập,
,Nếu có cảm xúc gì,
,Tâm không bị dao động.
,Tỷ-kheo hãy nhiếp phục,
,Cả hai tham sân ấy,
,Hãy đến bờ bên kia,
,Vượt buộc ràng sanh tử.

,(2)
Thâu Nhiếp (2)
,Rồi Tôn giả Màlukyaputta đi đến Thế Tôn... Ngồi xuống một bên, Tôn giả Màlukyaputta bạch Thế Tôn:
,- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết pháp vắn tắt cho con. Sau khi nghe pháp của Thế Tôn, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
,- Ở đây, này Màlukyaputta, nay Ta nói gì với các Tỷ-kheo trẻ tuổi, khi Ông là một Tỷ-kheo già yếu, niên cao, đại lão, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đến cuối cuộc đời, lại yêu cầu Ta giáo giới một cách vắn tắt?
,- Bạch Thế Tôn, dầu cho con già yếu, niên cao, đại lão, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đến cuối cuộc đời, mong Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con! Mong Thiện Thệ hãy thuyết pháp vắn tắt cho con! Chắc chắn con sẽ hiểu ý nghĩa lời Thế Tôn giảng. Chắc chắn con sẽ trở thành người thừa tự pháp của Thế Tôn.
[1]
,- Ông nghĩ thế nào, này Màlukyaputta?
,1. Các sắc do mắt nhận thức, Ông không thấy, trước đây Ông không thấy, nay Ông không thấy, và Ông không muốn thấy; ở đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái không?
,- Thưa không, bạch Thế Tôn.
,2- Các tiếng do tai nhận thức, Ông không nghe, trước đây Ông không nghe, nay Ông không nghe, và Ông không muốn nghe; ở đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái hay không?
,- Thưa không, bạch Thế Tôn.
,3. Các hương do mũi nhận thức, Ông không ngửi, trước đây Ông không ngửi, nay Ông không ngửi, và Ông không muốn ngửi; ở đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái không?
,- Thưa không, bạch Thế Tôn.
,4- Các vị do lưỡi nhận thức, Ông không nếm, trước đây Ông không nếm, nay Ông không nếm, và Ông không muốn nếm; ở đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái không?
,- Thưa không, bạch Thế Tôn.
,5- Các xúc do thân nhận thức, Ông không cảm thọ, trước đây Ông không cảm thọ, nay Ông không cảm thọ, và Ông không muốn cảm thọ; ở đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái không?
,- Thưa không, bạch Thế Tôn.
,6- Các pháp do ý thức nhận thức, Ông không nhận thức, trước đây Ông không nhận thức, và Ông không muốn nhận thức;ở đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái không?
,- Thưa không, bạch Thế Tôn.
[2]
,1- Và ở đây, này Màlukyaputta, đối với các pháp được thấy, được nghe, được cảm nhận, được biết đến, Ông sẽ chỉ thấy được với những vật thấy được, sẽ chỉ nghe được với những vật nghe được, sẽ chỉ cảm nhận được đối với những vật cảm nhận được, sẽ chỉ nhận biết được đối với những vật có thể nhận biết được.
,2. Vì rằng, đối với các pháp được thấy, được nghe, được cảm nhận, được biết đến, Ông sẽ chỉ thấy được với những vật thấy được, chỉ nghe được với những vật nghe được, chỉ cảm nhận được đối với những vật cảm nhận được, chỉ nhận biết được đối với những vật nhận biết được. Cho nên, này Màlukyaputta, Ông không có vì cái ấy. Do vì, Ông không có vì cái ấy, nên Ông không có: "Ở nơi đây". Do vì, Ông không có: "Ở nơi đây", do vậy, Ông sẽ không có đời này, đời sau, và giữa hai đời ấy. Ðây là sự chấm dứt khổ đau.
,3- Bạch Thế Tôn, lời giảng vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu một cách rộng rãi như sau:
,Thấy sắc, niệm mê say,
,Tác ý đến ái tướng,
,Tâm tham đắm cảm thọ,
,Tham luyến sắc an trú.
,Vị ấy, thọ tăng trưởng,
,Nhiều loại, từ sắc sinh,
,Tham dục và hại tâm,
,Não hại tâm vị ấy,
,Như vậy, khổ tích lũy,
,Ðược gọi xa Niết-bàn.
,Nghe tiếng, niệm mê say,
,Tác ý đến ái tướng,
,Tâm tham đắm cảm thọ,
,Tham luyến tiếng an trú.
,Vị ấy, thọ tăng trưởng,
,Nhiều loại, từ tiếng sanh,
,Tham dục và hại tâm,
,Não hại tâm vị ấy,
,Như vậy, khổ tích lũy,
,Ðựơc gọi xa Niết-bàn.
,Ngửi hương, niệm mê say,
,Tác ý đến ái tướng,
,Tâm tham đắm cảm thọ,
,Tham luyến tiếng an trú.
,Vị ấy, thọ tăng trưởng,
,Nhiều loại, từ tiếng sanh,
,Tham dục và hại tâm,
,Não hại tâm vị ấy,
,Như vậy, khổ tích lũy,
,Ðược gọi xa Niết-bàn.
,Nếm vị, niệm mê say,
,Tác ý đến ái tướng,
,Tâm tham đắm cảm thọ,
,Tham luyến vị an trú.
,Vị ấy, thọ tăng trưởng,
,Nhiều loại, từ vị sanh,
,Tham dục và hại tâm,
,Não hại tâm vị ấy,
,Như vậy, khổ tích lũy,
,Ðược gọi xa Niết-bàn.
,Cảm xúc, niệm mê say,
,Tác ý đến ái tướng,
,Tâm tham đắm cảm thọ,
,Tham luyến xúc an trú.
,Vị ấy, thọ tăng trưởng,
,Nhiều loại, từ xúc sanh,
,Tham dục và hại tâm,
,Não hại tâm vị ấy,
,Như vậy, khổ tích lũy,
,Ðược gọi xa Niết-bàn.
,Biết pháp, niệm mê say,
,Tác ý đến ái tướng
,Tâm tham đắm cảm thọ,
,Tham luyến pháp an trú.
,Vị ấy, thọ tăng trưởng,
,Nhiều loại, từ pháp sanh,
,Tham dục và hại tâm,
,Não hại tâm vị ấy,
,Như vậy, khổ tích lũy,
,Ðược gọi xa Niết-bàn
,Vị ấy không tham sắc,
,Thấy sắc, không ái luyến,
,Tâm không dính cảm thọ,
,Không luyến sắc an trú.
,Theo sắc, vị ấy thấy,
,Tùy sắc, thọ cảm giác,
,Tiêu mòn, không tích lũy,
,Như vậy, chánh niệm hành,
,Như vậy, khổ không chứa.
,Ðược gọi gần Niết-bàn
,Vị ấy không tham tiếng,
,Nghe tiếng, không ái luyến,
,Tâm không dính cảm thọ,
,Không luyến tiếng an trú.
,Theo tiếng, vị ấy nghe,
,Tùy tiếng, thọ cảm giác.
,Tiêu mòn, không tích lũy,
,Như vậy, chánh niệm hành,
,Như vậy, khổ không chứa,
,Ðược gọi gần Niết-bàn.
,Vị ấy không tham hương,
,Ngửi hương, không ái luyến,
,Tâm không dính cảm thọ,
,Không luyến hương an trú.
,Theo hương, vị ấy ngửi,
,Tùy hương, thọ cảm giác,
,Tiêu mòn, không tích lũy,
,Như vậy, chánh niệm hành,
,Như vậy, khổ không chứa.
,Ðược gọi gần Niết-bàn.
,Vị ấy không tham vị,
,Nếm vị, không ái luyến,
,Tâm không dính cảm thọ,
,Không luyến vị an trú.
,Theo vị, vị ấy nếm.
,Tùy vị, thọ cảm giác,
,Tiêu mòn, không tích lũy,
,Như vậy, chánh niệm hành,
,Như vậy, khổ không chứa.
,Ðược gọi gần Niết-bàn.
,Vị ấy không tham xúc,
,Cảm xúc, không ái luyến,
,Tâm không dính cảm thọ,
,Không luyến xúc an trú,
,Theo xúc, vị ấy cảm,
,Tùy xúc, thọ cảm giác,
,Tiêu mòn, không tích lũy,
,Như vậy, chánh niệm hành,
,Như vậy, khổ không chứa,
,Ðược gọi gần Niết-bàn.
,Vị ấy không tham pháp,
,Biết pháp, không ái luyến,
,Tâm không dính cảm thọ,
,Không luyến pháp an trú.
,Theo pháp, vị ấy cảm,
,Tùy pháp, thọ cảm giác,
,Tiêu mòn, không tích lũy,
,Như vậy, chánh niệm hành,
,Như vậy, khổ không chứa,
,Ðược gọi gần Niết-bàn.
,- Bạch Thế Tôn, lời Thế Tôn nói vắn tắt này, con hiểu một cách rộng rãi như vậy.
,4- Lành thay, lành thay, này Màlukyaputta! Lành thay, này Màlukyaputta, lời nói vắn tắt của Ta, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi:
,Thấy sắc, niệm mê say,
,Tác ý đến ái tướng,
,(như trên)
,Như vậy, khổ không chứa,
,Ðược gọi gần Niết-bàn.
,Lời nói vắn tắt này của Ta, này Màlukyaputta, Ông cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
,Rồi Tôn giả Màlukyaputta, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng.dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi ra đi.
[3]
,1. Rồi Tôn giả Màlukyaputta sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu, chứng được mục đích mà các thiện gia nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chính là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú.
,2. Vị ấy biết rõ:
,- "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
,Và Tôn giả Màlukyaputta trở thành một vị A-la-hán nữa.

,(3)
Thối Ðọa (Parihànam)
,- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông về pháp thối đọa, pháp bất thối đọa và sáu thắng xứ.
[1]
,Và thế nào là pháp thối đọa?
,1. Ở đây, Tỷ-kheo sau khi mắt thấy sắc, các ác, bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết sử được khởi lên. Nếu Tỷ-kheo đón nhận chúng (adhivàseti), không từ bỏ, không đoạn trừ, không tiêu diệt, không khiến chúng không thể sanh khởi, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng:
,- "Ta làm thối thất các thiện pháp".
,Ðây Như Lai gọi là pháp thối đọa.
,2-5:
,... tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc...
,6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sau khi ý nhận thức pháp, các ác, bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết sử được khởi lên. Nếu Tỷ-kheo đón nhận chúng, không từ bỏ, không đoạn trừ, không tiêu diệt, không khiến chúng không thể sanh khởi, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng:
,- "Ta làm thối thất các thiện pháp".
,Ðây Như Lai gọi là pháp thối đọa.
,Như vậy, này các Tỷ-kheo, là pháp thối đọa.
[2]
,Và như thế nào là pháp bất thối đọa?
,1. Ở đây, Tỷ-kheo sau khi mắt thấy sắc, các ác, bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết sử được khởi lên. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không có đón nhận chúng, từ bỏ, đoạn trừ, tiêu diệt, khiến chúng không thể sanh khởi, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng:
,- "Ta không làm thối thất các thiện pháp".
,Ðây Như Lai gọi là pháp bất thối đọa.
,2-5:
,... tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc...
,6. Ở đây, sau khi ý nhận thức pháp, các ác, bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết sử được khởi lên. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không có đón nhận chúng, từ bỏ, đoạn trừ, tiêu diệt, khiến chúng không thể sanh khởi, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng:
,- "Ta không làm thối thất các thiện pháp".
,Ðây Như Lai gọi là pháp bất thối đọa.
,Như vậy, này các Tỷ-kheo, là pháp bất thối đọa.
[3]
,- Và thế nào là sáu thắng xứ?
,1. Ở đây, một Tỷ-kheo sau khi mắt thấy sắc, các ác, bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết sử không khởi lên. Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng:
,- "Xứ này đã được nhiếp phục".
,Và Như Lai gọi đây là thắng xứ.
,2-5:
,... tai...mũi... lưỡi... thân...
,6. Lại nữa, một Tỷ-kheo sau khi ý nhận thức pháp, các ác bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết sử không khởi lên. Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng:
,- "Xứ này đã được nhiếp phục".
,Và Như Lai gọi đây là thắng xứ.

,(4)
Sống Phóng Dật (Pamàdavihàri)
,Nhân duyên ở Sàvatthi...
,- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông về trú phóng dật và trú không phóng dật. Hãy lắng nghe.
[1]
,Và này các Tỷ-kheo, thế nào là trú phóng dật?
,1. Ai sống không nhiếp hộ nhãn căn, thời tâm người ấy bị nhiễm ô (vyàsincati) đối với các sắc do mắt nhận biết.
,Với người tâm bị nhiễm ô thời không có hân hoan. Do không có hân hoan nên không có hỷ. Do không có hỷ nên không có khinh an. Do không khinh an nên khổ an trú. Với người đau khổ, tâm không có thể định tĩnh. Do tâm không định tĩnh, các pháp không hiển lộ.
,Do các pháp không hiển lộ, người ấy được gọi là người an trú phóng dật.
,2-5:
,... nhĩ căn... tỷ căn... thiệt căn... thân căn...
,6. Ai sống không nhiếp hộ ý căn, tâm bị nhiễm ô đối với các pháp do ý nhận biết. Với người tâm bị nhiễm ô thời không có hân hoan. Do không hân hoan nên không có hỷ. Do không có hỷ nên không có khinh an. Do không có khinh an nên khổ an trú. Với người đau khổ, tâm không có thể định tĩnh. Do tâm không định tĩnh, các pháp không hiển lộ.
,Do các pháp không hiển lộ, người ấy được gọi là người an trú phóng dật.
,Như vậy, này các Tỷ-kheo, là an trú phóng dật.
[2]
,Và như thế nào, là an trú không phóng dật?
,1. Ai sống nhiếp hộ nhãn căn, tâm không bị nhiễm ô đối với các sắc do mắt nhận biết. Với người tâm không bị nhiễm ô thời hân hoan sanh. Do có hân hoan nên hỷ sanh. Do có hỷ sanh nên thân được khinh an. Do thân khinh an nên cảm lạc thọ. Với người an lạc, tâm được định tĩnh. Do tâm định tĩnh, các pháp được hiển lộ.
,Do các pháp được hiển lộ, người ấy được gọi là người trú không phóng dật.
,2-5:
,... nhĩ căn... tỷ căn... thiệt căn... thân căn...
,6. Ai sống nhiếp hộ ý căn, tâm không bị nhiễm ô đối với các pháp do ý nhận biết. Với người tâm không bị nhiễm ô thời hân hoan sanh. Do có hân hoan nên hỷ sanh. Do có hỷ tâm nên thân được khinh an. Do thân khinh an nên cảm lạc thọ. Với người an lạc, tâm được định tĩnh. Do tâm định tĩnh, các pháp được hiển lộ.
,Do các pháp được hiển lộ, người ấy được gọi là người trú không phóng dật.
,Như vậy, này các Tỷ-kheo, là trú không phóng dật.

,(5)
Nhiếp Hộ (Samvara)
,- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông về nhiếp hộ và không nhiếp hộ. Hãy lắng nghe.
[1]
,Và thế nào là không nhiếp hộ?
,1. Này các Tỷ-kheo, có những sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu một Tỷ-kheo hoan hỷ sắc ấy, tán dương và an trú với tâm tham luyến; thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng:
,- "Ta đã làm thối thất các thiện pháp".
,Như Lai gọi đây là pháp thối đọa.
,2-5:
,... Có những tiếng do tai nhận thức... Có những hương do mũi nhận thức... Có những vị do lưỡi nhận thức... Có những xúc do thân cảm giác...
,6. Có những pháp do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu một Tỷ-kheo hoan hỷ pháp ấy, tán dương và an trú với tâm tham luyến; thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng:
,- "Ta đã làm thối thất các thiện pháp".
,Và Như Lai gọi đây là thối thất.
,Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không nhiếp hộ.
[2]
,Và thế nào là nhiếp hộ?
,1. Này các Tỷ-kheo, có những sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu một Tỷ-kheo không hoan hỷ sắc ấy, không tán dương và an trú với tâm không tham luyến; thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng:
,- "Ta không làm thối thất các thiện pháp".
,Và Như Lai gọi đây là không thối thất.
,2-5:
,... Có những tiếng do tai nhận thức... Có những hương do mũi nhận thức... Có những vị do lưỡi nhận thức... Có những xúc do thân cảm giác...
,6. Và này các Tỷ-kheo, có những pháp do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu một Tỷ-kheo không hoan hỷ pháp ấy, không tán dương và an trú với tâm không tham luyến; Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng:
,- "Ta không làm thối thất các thiện pháp".
,Và Như Lai gọi đây là không thối thất.
,Như vậy, này các Tỷ-kheo, là có nhiếp hộ.

,(6)
Thiền Ðịnh
,- Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập Thiền định. Này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo được Thiền định, hiểu rõ như thật.
,Và hiểu rõ như thật cái gì?
,1- Như thật hiểu rõ mắt là vô thường, như thật hiểu rõ các sắc là vô thường, như thật hiểu rõ nhãn thức là vô thường, như thật hiểu rõ nhãn xúc là vô thường. Phàm duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; như thật hiểu rõ cảm thọ ấy là vô thường.
,2-5:
,... tai... mũi... lưỡi... thân...
,6. Như thật hiểu rõ ý là vô thường, như thật hiểu rõ các pháp là vô thường, như thật hiểu rõ ý thức là vô thường, như thật hiểu rõ ý xúc là vô thường. Phàm duyên ý xúc, khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; như thật hiểu rõ cảm thọ ấy là vô thường.
,Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập Thiền định. Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo được Thiền định, hiểu rõ như thật.

,(7)
Thiền Tịnh (Patisallàna)
,- Này các Tỷ-kheo, hãy hành trì hạnh Thiền tịnh. Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo Thiền tịnh, hiểu rõ như thật.
,Và hiểu rõ gì như thật?
,1. Như thật hiểu rõ mắt là vô thường, như thật hiểu rõ các sắc là vô thường, như thật hiểu rõ nhãn thức là vô thường, như thật hiểu rõ nhãn xúc là vô thường. Phàm duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; như thật hiểu rõ cảm thọ ấy là vô thường.
,2-6:
,... tai... mũi... lưỡi... thân... ý...
,Này các Tỷ-kheo, hãy hành trì hạnh Thiền tịnh. Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo Thiền tịnh, hiểu rõ như thật.

,(8)
Không Phải Của Các Ông (1)
,- Cái gì không phải của các Ông, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc an lạc cho các Ông.
[1]
,Và cái gì không phải của các Ông?
,1- Mắt, này các Tỷ-kheo, không phải của các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông. Các sắc không phải của các Ông. Hãy từ bỏ chúng. Từ bỏ chúng, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông. Nhãn thức không phải của các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông. Nhãn xúc không phải của các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông. Phàm duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy không phải của các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.
,2-5:
,... Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
,6. Ý không phải của các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông. Các pháp không phải của các Ông. Hãy từ bỏ chúng. Từ bỏ chúng, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông. Ý thức không phải của các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông. Ý xúc không phải của các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông. Phàm duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy không phải của các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.
[2]
,1. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong rừng Thắng Lâm này có người mang đi, hay mang đốt, hay làm theo những gì người ấy muốn, tất cả cỏ, củi, nhánh cây hay lá, thời các Ông có nghĩ như sau:
,- "Người ấy mang chúng tôi đi, hay đốt chúng tôi, hay làm gì chúng tôi theo ý người ấy muốn"?
,- Thưa không, bạch Thế Tôn.
,- Vì sao? Vì chúng không phải tự ngã hay không thuộc về tự ngã.
,Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, mắt không phải của các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc cho các Ông. Các sắc không phải của các Ông... Nhãn thức không phải của các Ông... Nhãn xúc không phải của các Ông... Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy không phải của các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

,(9)
Không Phải Của Các Ông (2)
,(Như kinh trên-không có ví dụ).

,(10)
Uddaka
[1]
,1- Này các Tỷ-kheo, Uddaka Ràmaputta có nói như sau:
, "Ta là bậc minh trí,
,Ta chiến thắng tất cả,
,Ta đào lên khổ căn,
,Trước kia chưa từng đào".
,2. Này các Tỷ-kheo, Uddaka Ràmaputta không phải bậc minh trí, lại tự nói: "Ta là bậc minh trí"; không chiến thắng tất cả, lại nói: "Ta chiến thắng tất cả"; không đào lên khổ căn, lại nói: "Ðã đào lên khổ căn".
,3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo nói một cách chân chánh, có thể nói như sau:
,Ta là bậc minh trí,
,Ta chiến thắng tất cả,
,Ta đào lên khổ căn,
,Trước kia, chưa từng đào.
[2]
,1- Và thế nào là Tỷ-kheo minh trí (vedagù)?
,Này các Tỷ-kheo, khi nào một Tỷ-kheo đối với sáu xúc xứ như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly; như vậy, là Tỷ-kheo minh trí.
,2. Và như thế nào là Tỷ-kheo chiến thắng tất cả?
,Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo đối với sáu xúc xứ, sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly, được giải thoát không có chấp thủ; như vậy, là Tỷ-kheo chiến thắng tất cả.
,3. Và thế nào là Tỷ-kheo đã đào lên khổ căn trước kia chưa được đào?
,- Mụt nhọt, này các Tỷ-kheo, là một danh từ chỉ cho cái thân do bốn đại tạo thành này, sanh ra từ cha mẹ, do cơm cháo nuôi dưỡng, tự tánh là vô thường, biến hoại, mai một, hủy hoại, hủy diệt. Gốc rễ của mụt nhọt, là đồng nghĩa với khát ái.
,Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo đoạn tận khát ái, chặt đứt đến gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không có thể sanh khởi trong tương lai; như vậy, là Tỷ-kheo đã đào lên khổ căn từ trước chưa được đào lên.
,Này các Tỷ-kheo, chính là Uddaka Ràmaputta đã nói lên lời nói như sau:
,Ta là bậc minh trí,
,Ta chiến thắng tất cả,
,Ta đào lên khổ căn,
,Trước kia chưa từng đào.
,Này các Tỷ-kheo, Uddaka không phải là bậc minh trí, lại tự nói: "Ta là bậc minh trí"; không chiến thắng tất cả, lại nói: "Ta chiến thắng tất cả"; không đào lên khổ căn, lại nói: "Ðã đào lên khổ căn".
,Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo nói một cách chân chánh, có thể nói như sau:
,Ta là bậc minh trí,
,Ta chiến thắng tất cả,
,Ta đào lên khổ căn,
,Trước kia chưa từng đào.
...

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Trangphattu Yếu lược & Bố cục

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

PHẦN DẪN GIẢI-CHÚ THÍCH-BÌNH LUẬN

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.